Bản án về tội trộm cắp tài sản số 248/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 248/2021/HS-ST NGÀY 11/11/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 240/2021/TLST-HS ngày 19 tháng 10 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 259/2021/QĐXXST-HS ngày 25/10/2021 đối với bị cáo: NGUYỄN HỒNG Q , Sinh ngày: 06/01/2003; HKTT và chỗ ở: Thôn T, xã P, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Học sinh; con ông Nguyễn Mậu T và bà Nguyễn Thị H; TATS: Theo danh chỉ bản số 489 ngày 09/08/2021 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 29/07/2021, ngày 06/08/2021 hủy bỏ tạm giữ.

Hiện áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị hại: Công ty TNHH S (Có mặt tại phiên tòa) Nội Địa chỉ: Khu công nghiệp Đ, phường P, quận Long Biên, thành phố Hà

Người đại diện theo ủy quyền: Anh Lê Cảnh T – Sinh năm: 1990 HKTT: B, T, Hoàng Mai, Hà Nội.

(Có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 50 phút, ngày 29/7/2021, Công an phường Phúc Lợi tiếp nhận tin báo của anh Lê Cảnh T (sinh năm 1990; HKTT: Tân Mai, Hoàng Mai, Hà Nội) là đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH S với nội dung: Công ty TNHH S bị mất 01 đơn hàng có mã vận đơn VN018602900817, bên trong là sản phẩm điện thoại Apple Iphone 11 loại 64GB, IMEI (sim thực): 35058870062XXXX, số IMEI (sim kỹ thuật số): 35058870067XXXX trong hộp điện thoại có dán tem niêm phong của nhà sản xuất, trị giá 13.190.000 đồng tại kho hàng của Công ty TNHH S địa chỉ khu công nghiệp Đài Tư, phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội và nghi ngờ cho nhân viên kho hàng S đã lấy trộm chiếc điện thoại trên vào ngày 25/7/2021.

Quá trình điều tra xác định:

Khoảng 09 giờ ngày 25/7/2021, Nguyễn Hồng Q (sinh ngày 06/01/2003, HKTT: Trân Tảo, Phú Thị, Gia Lâm, Hà Nội) là nhân viên thời vụ của kho hàng S tại khu công nghiệp Đài Tư đang phân loại hàng ở ô số 11 của kho hàng thấy có 03 đơn hàng là điện thoại di động Iphone 11. Lúc này, Q nảy sinh ý định trộm cắp nên khi Nguyễn Đắc Kiên (sinh năm 2001, HKTT: Trân Tảo, Phú Thị, Gia Lâm Hà Nội) là nhân viên kho hàng chuyển số hàng này đến khu hàng giá trị cao thì Q đã giữ lại đơn hàng có mã vận đơn VN018602900817 trong sọt phân loại rồi lấy đơn hàng khác có kích thước lớn che bên trên để tránh người xung quanh và camera quan sát được. Q dùng tay bóc băng dính gói đơn hàng, lấy ra 01 (một) hộp chứa điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11, màu trắng, dung lượng 64 GB, số IMEI (sim thực): 35058870062XXXX, số IMEI (sim kỹ thuật số): 35058870067XXXX sau đó nhanh chóng giấu hộp điện thoại trên vào cạp quần và bỏ lại vỏ đơn hàng vào thùng phân loại. Sau đó, Q đi vào nhà vệ sinh ở cuối kho hàng, tại đây Q bóc hộp lấy chiếc điện thoại Iphone 11 giấu vào cạp quần trước bụng và vứt bỏ vỏ hộp điện thoại, phụ kiện điện thoại trong hộp vào túi rác trong nhà vệ sinh. Q tiếp tục làm việc tại kho, sau đó xin nghỉ, đi ra ngoài uống nước rồi cất điện thoại vào cốp xe máy của Q để tại nhà gửi xe của kho hàng. Đến 13 giờ 30 phút ngày 25/7/2021, hết giờ làm việc, Q đem chiếc điện thoại trên về nhà tại địa chỉ: thôn Trân Tảo, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội và cất giấu tại phòng ngủ riêng của Q .

Khoảng 15 giờ, ngày 29/7/2021, Nguyễn Hồng Q đã đến Công an phường Phúc Lợi đầu thú và khai báo về hành vi trộm cắp điện thoại như nội dung nêu trên.

Vật chứng thu giữ: Thu giữ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu trắng, dung lượng 64GB số IMEI (sim thực): 35058870062XXXX, số IMEI (sim kỹ thuật số): 35058870067XXXX, điện thoại đã kích hoạt sử dụng. Điện thoại trên được phát hiện tại phòng ngủ riêng của Nguyễn Hồng Q ở địa chỉ: thôn Trân Tảo, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội, do Q tự nguyện giao nộp.

Tại kết luận định giá tài sản số 176/KL-HĐĐGTS ngày 30/7/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Long Biên kết luận giá trị tài sản như sau: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu trắng, dung lượng 64 GB có giá trị: 13.190.000 đồng (mười ba triệu một trăm chín mươi nghìn đồng).

Bản cáo trạng số: 236/CT-VKS ngày 11/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Nguyễn Hồng Q về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của người làm chứng phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra thấy rằng: Hành vi của bị cáo Nguyễn Hồng Q đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Hành vi của bị cáo vi phạm vào khoản 1 Điều 173 của BLHS 2015.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS 2015.

Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo Q mức án từ 09 đến 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

Về dân sự: Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu trắng, dung lượng 64GB số IMEI (sim thực): 35058870062XXXX, số IMEI (sim kỹ thuật số): 35058870067XXXX thu giữ của Nguyễn Hồng Q , kết quả điều tra xác định điện thoại di động trên là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của Công ty TNHH S . Ngày 16/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Long Biên đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả tài sản trên cho Công ty TNHH S do anh Lê Cảnh T đại diện bị hại nhận. Sau khi nhận lại tài sản, anh T không có yêu cầu gì về dân sự và đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho Q .

Nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận thấy như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra-Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản tạm giữ đồ vật-tài liệu, bản kết luận giám định, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 25/7/2021, tại kho hàng của Công ty TNHH S (địa chỉ: Khu công nghiệp Đài Tư, phường Phúc Lợi, quận Long Biên, thành phố Hà Nội), bị cáo Nguyễn Hồng Q có hành vi trộm cắp 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu trắng, dung lượng 64GB số IMEI (sim thực): 35058870062XXXX, số IMEI (sim kỹ thuật số): 35058870067XXXX trị giá 13.190.000 đồng (mười ba triệu một trăm chín mươi nghìn đồng) là tài sản của Công ty TNHH S .

[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Hồng Q đã cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được Bộ luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội, xét về tính chất, mức độ thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm - Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4] Về tình tiết tăng nặng TNHS:

Nhân thân bị cáo không có tiền án, tiền sự. Vì vậy, bị cáo không có tình tiết tang nặng TNHS.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả, bị hại có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đáng ra phải xử phạt bị cáo một mức tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới thỏa đáng. Song khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử thấy rằng, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tôi do cơ hội nên mở lượng khoan hồng cho bị cáo và chỉ cần xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015 để tạo điều kiện cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội cũng đủ điều kiện giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, không có khả năng thi hành phạt bổ sung bằng tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

- Về dân sự:

[7] Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 màu trắng, dung lượng 64GB số IMEI (sim thực): 35058870062XXXX, số IMEI (sim kỹ thuật số): 35058870067XXXX. Ngày 16/8/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Long Biên đã ra Quyết định xử lý vật chứng trao trả tài sản trên cho Công ty TNHH S do anh Lê Cảnh T đại diện bị hại nhận. Sau khi nhận lại tài sản, anh T không có yêu cầu gì về dân sự nên HĐXX không xem xét.

Đại diện VKSND quận Long Biên đề nghị về hình phạt chính, hình phạt bổ sung, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và dân sự là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.

- Về án phí:

[9] Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[10] Bị cáo và người tham gia tố tụng được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hồng Q phạm tội: Trộm cắp tài sản.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự 2015.

Xử p hạt : Bị cáo Nguyễn Hồng Q 08 (Tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 16 (Mười sáu) tháng tính từ ngày tuyên án.

Giao bị cáo Q cho xã Phú Thị – huyện Gia Lâm – quận Long Biên để giám sát và giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo Cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 bộ luật Tố tụng Hình sự. Án xử công khai sơ thẩm.

Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án.

Bị hại có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 248/2021/HS-ST

Số hiệu:248/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về