Bản án về tội trộm cắp tài sản số 245/2021/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 245/2021/HSST NGÀY 20/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20/07/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 195/2021/TLST-HS ngày 31 tháng 05 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 248 /2021/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 06 năm 2021 đối với các Bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Công Gi, sinh năm 19XX; Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn Tiên Chu, xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 11/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Công Th và con bà: Nguyễn Thị H; Có vợ: Nguyễn Thị T; Con: Có 02 con; Con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Chưa.

Nhân thân: Ngày 31/8/2006, bị Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 02 năm tù về tội Cướp tài sản.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/01/2021 đến ngày 03/02/2021. Hiện đang bị áp dụng Biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

2. Họ và tên: Đặng Văn D, sinh năm 19XX; Giới tính: Nam.

Nơi ĐKHKTT và nơi ở: Thôn Lai Sơn, xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Đặng Văn Th (Đã chết) và con bà: Nguyễn Thị C; Có vợ: Lưu Thị Ng; Con: Có 02 con; Con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Chưa.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 25/01/2021 đến ngày 03/02/2021. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị hại:

ng Ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng điện lực Hồ Bắc Trung Quốc, thực hiện gói thầu 1,2 tại Sóc Sơn.

Trụ sở: Số 22 Hoa Bằng Lg, khu đô thị Long V, thị trấn OfFice Quang Minh, huyện Mê L, thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: Ông Tống Vệ Nam , sinh năm 1968. Đại diện theo Ủy quyền: Ông Li Xiu Q, Giám đốc dự án. Người được Ủy quyền: Ông Hong Yu Q, sinh năm 1975. Quê quán: Thành phố Vũ H, tỉnh Hồ B, Trung Quốc.

Chỗ ở hiện tại: Thôn Bình An, xã Trung Giã, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1 .Anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 19XX (Có mặt).

Trú tại: Thôn L, xã B, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

2. Bà Trần Thị L, sinh năm 19XX (Có mặt).

Trú tại: Thôn N, xã B, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

3. Chị Lưu Thị N, sinh năm 1986 (Vợ của bị cáo D) (Vắng mặt).

Trú tại: Thôn L, xã B, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội;

Người làm chứng:

Ông Võ Văn T, sinh năm 1966.

Trú tại: Thôn X, xã N, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bị cáo Nguyễn Công G là nhân viên bảo vệ tại khu liên hiệp xử lý chất thải Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Trong thời gian làm việc, bị cáo Gđể ý thấy tại bãi đất của hố chôn lấp số 2 trong khu liên hiệp xử lý chất thải do Công ty Trách nhiệm hữu hạn xây dựng Hồ Bắc thuộc Tập đoàn xây dựng điện lực Trung Quốc (Là pháp nhân Trung Quốc) đang thi công có nhiều dây chuyền chưa được lắp đặt, buổi tối không có người trông giữ. Thấy có sơ hở nên bị cáo Gđã bàn bạc với người quen là bị cáo Đặng Văn D về việc trộm tài sản của Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng điện lực Hồ Bắc để bán lấy tiền ăn tiêu. Cả hai thống nhất khi đến ca trực của bị cáo Gthì sẽ cùng nhau trộm tài sản.

Theo sự thống nhất từ trước, đến khoảng 03 giờ 45 phút ngày 23/12/2020, khi đến ca trực của bị cáo Gthì bị cáo D đã điều khiển xe máy biển kiểm soát 29V6-6901 kéo theo 01 xe lôi (Loại xe cải tiến) và mang theo 01 cờ lê cỡ (10x25) mm hiệu Diamon đi vào điểm tập kết thiết bị của Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng điện lực Hồ Bắc. Tại đây, bị cáo D đã dùng cờ lê tháo được 05 chiếc mô tơ điện lắp ở 05 dây chuyền và chở làm 02 chuyến đi qua chốt gác do bị cáo Nguyễn Công Gđang làm đem về nhà cất giấu. Sau đó, bị cáo Gđem bán 02 chiếc mô tơ điện cho bà Trần Thị Luất được số tiền 500.000 đồng. Bị cáo Đặng Văn D đã bán 03 chiếc mô tơ điện còn lại cho anh Nguyễn Văn Thuần được 1.100.000 đồng. Toàn bộ số tiền này, bị cáo Gvà bị cáo D đã chia nhau sử dụng ăn tiêu cá nhân hết.

Ngày 25/01/2021, bị cáo Nguyễn Công Gvà bị cáo Đặng Văn D bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội phát hiện, bắt giữ về hành vi trộm cắp tài sản.

Tại bản Cáo trạng số: 188/CT-VKS-P2 ngày 25/05/2021 Viện kiểm sát nhân thành phố Hà Nội đã truy tố các bị cáo Nguyễn Công G, Đặng Văn D về tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa Các bị cáo Nguyễn Công G, Đặng Văn D khai nhận hành vi phạm tội Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Gi, D, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản Điều 173; Các điểm h, i, s, khoản 1,2 Điều 51; Điều 17, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Công G Từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Văn D Từ 06 tháng đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các Bị cáo.

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu sung công nhà nước 02 điện thoại di động, tịch thu tiêu hủy 01 cờ lê. Buộc các Bị cáo phải nộp lại số tiền thu tiền bất chính sung vào ngân sách Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và tội danh của các Bị cáo:

Bị cáo Nguyễn Công Glà nhân viên bảo vệ tại khu liên hiệp xử lý chất thải Nam Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội phát hiện thấy nhiều dây chuyền Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng điện lực Hồ Bắc thuộc Tập đoàn xây dựng điện lực Trung Quốc đang lắp đặt nhưng không có người trông giữ. Khoảng 03 giờ 45 phút ngày 23/12/2020, bị cáo Gthống nhất: Bị cáo Đặng Văn D đột nhập vào công trường, bị cáo Gthì trông coi và trộm cắp được 05 mô tơ trị giá 8.400.000 đồng của Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng điện lực Hồ Bắc, đem bán được 1.600.000 đồng cùng nhau ăn tiêu. Đến ngày 25/01/2021, bị cáo Gvà bị cáo D bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Sóc Sơn phát hiện bắt giữ về hành vi Trộm cắp tài sản.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Nguyễn Công G, Đặng Văn D đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”; Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Điều 173. Tội Trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

….

Hành vi của các Bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì đã xâm phạm đến tài sản của Công ty nước ngoài đầu tư tại Việt Nam, làm mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý bất bình trong nhân dân. Bản thân các Bị cáo là người có nhận thức pháp luật nhưng không có ý thức tu dưỡng nhưng vì ham chơi, lười lao động, muốn có tiền tiêu sài nên đã phạm tội. Vì vậy cần phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các Bị cáo nhằm phòng ngừa tội phạm nói chung và giáo dục các Bị cáo nói riêng. Xét vai trò của các Bị cáo thấy rằng: Vai trò của các Bị cáo là ngang nhau, đồng phạm giản đơn bị cáo Gthì trông canh trong ca trực bảo vệ, bị cáo D thực hiện hành vi, các bị cáo cùng mang đi bán. Bị cáo Gcó nhân thân xấu phạm tội từ năm 2006 lúc phạm tội Bị cáo dưới 18 tuổi.

Tuy nhiên khi Quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các Bị cáo: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản thu hồi lại được, các Bị cáo đều có hoàn cảnh khó khăn thuộc diện hộ nghèo vừa mới chuyển sang hộ cận nghèo đều là lao động chính trong gia đình được Ủy ban nhân dân nơi cư trú xác nhận, bị cáo D làm bảo vệ, bị cáo D đi bới các đống rác giảm nhẹ hình phạt cho các Bị cáo theo các điểm h,i s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Các Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Buộc Bị cáo Nguyễn Công G phải nộp lại 500.000 đồng.

Bị cáo Đặng Văn D phải nộp lại 1.10 000 đồng là tiền thu lợi bất chính của các Bị cáo do bán tài sản trộm cắp mà có để sung vào ngân sách Nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự:

Công ty đã nhận lại toàn bộ tài sản và không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã trả lại toàn bộ tài sản mua do trộm cắp vẫn còn nguyện vẹn cho Công ty; Xe máy, xe cải tiến Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu và không có đề nghị thêm gì nữa nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự; Căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Căn cứ nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt tù nhưng cho các Bị cáo được cải tạo tại địa phương không cần thiết phải cách ly các Bị cáo ra khỏi đời sống xã hội vẫn đủ tác dụng răn đe giáo dục các Bị cáo riêng và phòng ngừa chung.

[3] Về hình phạt bổ sung:

Các Bị cáo không có nghề nghiệp nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các Bị cáo.

[4] Về vật chứng vụ án:

Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Cơ quan điều tra đã xem xét xử lý trả lại tài sản cho Công ty là có căn cứ.

[5] Các Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong vụ án này, những Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Bà Luất, anh Thuần không biết đã mua bán tài sản, do các Bị cáo trộm cắp, đã nộp lại cho Cơ quan điều tra và trả lại cho đại diện Bị hại, bị cáo D dùng xe máy, xe cải tiến của chị Ngọc nhưng chị Ngọc không biết bị cáo D dùng xe để phạm tội nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để khởi tố, truy tố, không yêu cầu các Bị cáo đã trả lại số tiền mua bán cho Anh Thuần bà Luất và không có yêu cầu gì nữa. Nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Các cơ quan tiến hành tố tụng của thành phố Hà Nội thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền và các quy định khác về điều tra, truy tố. Kết luận điều tra của Công an thành phố Hà Nội, Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội áp dụng với các Bị cáo là đúng, tương xứng với hành vi phạm tội của các Bị cáo và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các Bị cáo Nguyễn Công G, Đặng Văn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Các điểm h,i, s khoản 1,2 Điều 51; Điều 65, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn C G09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Văn D 07 (Bẩy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 14 (Mười bốn) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Nguyễn Công G, Đặng Văn D cho Ủy ban nhân dân xã Bắc S, huyện Sóc S, thành phố Hà Nội, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp các bị cáo Gi, D thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách các bị cáo Gi, D cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể Quyết định buộc các bị cáo Gi, D phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.

Buộc bị cáo Nguyễn Công Gphải nộp lại 500.000 đồng.

Bị cáo Đặng Văn D phải nộp lại 1.10 000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự: Không.

Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (Một) cờ lê cỡ (10x25m m) hiệu Diamon.

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước 02 điện thoại của các Bị cáo:

Nguyễn Công G 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA có số cuối Imei 032264 và 032272.

Đặng Văn D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Sam Sung màu đen có số cuối Imei 349416 và 349414.

Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 13/07/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hà Đông, thành phố Hà Nội.

Về án phí: Căn cứ Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố Tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các Bị cáo mỗi Bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm các Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Đại diện Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao Bản án hoặc được niêm yết hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 245/2021/HSST

Số hiệu:245/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về