TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 243/2022/HS-PT NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 229/2022/TLPT-HS ngày 12 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo Trần Quốc B do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 234/2022/HS-ST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Bị cáo có kháng cáo: Trần Quốc B, sinh năm 1990 tại tỉnh Tiền Giang;
nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp C, xã P, huyện T, tỉnh Tiền Giang; tạm trú: 251/13B đường ĐT, khu phố Đ, phường T, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 02/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo:
không; con ông Trần Văn Ẩ và bà Võ Thị H; bị cáo có vợ tên Hồ Thị Kim T, sinh năm 1987 và người 02 con; tiền sự, tiền án: không; nhân thân: ngày 22/01/2016 bị Toà án nhân dân thị xã Thuận An (nay là thành phố Thuận An), tỉnh Bình Dương xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 07/02/2022 đến ngày 16/02/2022 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo tại ngoại, có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có hai bị hại nhưng không kháng cáo và không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28/01/2022, bị cáo Trần Quốc B đang ăn hủ tiếu quán phía đối diện tại ngã ba Ô, đường ĐT, khu phố Đ, phường D, thành phố D, tỉnh Bình Dương thì nhìn thấy có 01 xe mô tô hiệu Vison biển số 68B1 - 319.93 để bên đường không có người trông coi, bị cáo Trần Quốc B đi bộ băng qua đường, ngồi lên chiếc xe, nổ máy chạy về cất giữ tại phòng của mình. Bị cáo nói với vợ bị cáo là Hồ Thị Kim T rằng đây là xe của bạn gửi. Khoảng 01 giờ sáng ngày 29/01/2022, thấy có chuông điện thoại reo liên tục ở trên xe mô tô hiệu Vison biển số 68B1 - 319.93 nên Trần Quốc B lấy điện thoại ra nghe máy từ người gọi là Lâm Thanh L và Phạm Thị N là chủ sở hữa xe. B hẹn sẽ trả xe vào ngày hôm sau. Đến trưa ngày 29/01/2022, B nhận được điện thoại từ bà N và hẹn trả xe tại khu vực cổng bệnh viện Hoàn Hảo, phường An Bình. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, B điều khiển xe mô tô hiệu Vison biển số 68B1 - 319.93 ra cổng bệnh viện Hoàn Hảo gặp N, sau đó cả hai đi chơi đến khoảng 22 giờ cùng ngày thì về lại ngã ba Ông Xã và B đã trả lại toàn bộ tài sản gồm xe mô tô, điện thoại, các loại giấy tờ còn nguyên trong cốp xe. B kêu bà N kiểm tra lại tài sản nhưng bà N nói không cần rồi đi về nhà. Đến ngày 05/02/2022 bà N nhắn tin cho B với nội dung là chưa nhận lại được điện thoại Samsung A31 và giấy tờ xe nên hẹn gặp B để xin lại, B trả lời đã trả hết tài sản cho bà N. Đến khoảng 16 giờ ngày 06/02/2022, hai bên hẹn gặp tại ngã ba Ông Xã, khi B đi ra gặp bà N thì bị ông Lâm Thanh L cùng người dân bắt giữ báo công an phường Dĩ An xử lý. Tại công an phường Dĩ An, Trần Quốc B khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Bản kết luận định giá tài sản số 08/BB.ĐG ngày 16/02/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự thành phố Dĩ An kết luận như sau:
Điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A31 trị giá 2.500.000 đồng.
Xe mô tô hai bánh hiệu Honda, số loại Vision, màu sơn đỏ đen, số khung RLHJF5813GY446622, số máy: JF66E0763656, biển số 68B1 – 319.93 (sử dụng năm 2017) trị giá 22.500.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 234/2022/HS-ST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Trần Quốc B 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ 07/02/2022 đến ngày 16/02/2022.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại.
Ngày 02/8/2022, bị cáo Trần Quốc B kháng cáo xin được hưởng án treo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên toa trình bày quan điểm giải quyết vụ án:
Đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thụ lý và đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm là đúng theo quy định tại các Điều 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm xác định, nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Quốc B là có căn cứ và đúng pháp luật, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới. Mặc dù bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ; tuy nhiên, tài sản chiếm đoạt có giá trị lớn, bị cáo đã từng bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học để tự giáo dục rèn luyện mà lại cố ý phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 09 tháng tù là phù hợp nên không có căn cứ cho bị cáo được hưởng án treo.
Đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự giữ nguyên hình phạt theo Bản án hình sự sơ thẩm số 234/2022/HS-ST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với bị cáo Trần Quốc B.
Tại phần tranh luận và trong lời nói sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố Dĩ An, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa như Tòa án cấp sơ thẩm nhận định là đúng, bị cáo kháng cáo trong thời hạn theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung:
Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 28/01/2022, tại ngã ba Ông Xã, đường ĐT743, khu phố Đông Tân, phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương bị cáo Trần Quốc B đã lén lút chiếm đoạt xe mô tô hiệu Honda Vision màu sơn đỏ đen, số khung RLHJF5813GY446622, biển số 68B1 - 319.93 của ông Lâm Thanh L trị giá 22.500.000 đồng và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung A31 của bà Phạm Thị N trị giá 2.500.000 đồng. Hành vi bị cáo Trần Quốc B đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Bảo về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Năm 2016, bị cáo đã bị Toà án có thẩm quyền xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học để tự giáo dục rèn luyện trở thành người có ích cho xã hội mà lại cố ý phạm tội “Trộm cắp tài sản” là thể hiện sự coi thường pháp luật.
Bị cáo kháng cáo nhưng không cung cấp tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá tính chất hành vi phạm tội của bị cáo và quyết định xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù là phù hợp với hành vi bị cáo đã thực hiện, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của bị cáo.
[4] Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về áp dụng hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với hành vi bị cáo đã thực hiện nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[6] Án phí phúc thẩm: bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Quốc B.
2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 234/2022/HS-ST ngày 28/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương về hình phạt đối với bị cáo Trần Quốc B.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo Trần Quốc B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Trần Quốc B 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ 07/02/2022 đến ngày 16/02/2022.
3. Về án phí:
Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo Trần Quốc B phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 243/2022/HS-PT
Số hiệu: | 243/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về