TOÀ ÁN NH DÂN QUẬN Ô MÔN – THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 24/2023/HS-ST NGÀY 11/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày, ngày 11 tháng 5 năm 2023 tại điểm cầu chính trụ sở Tòa án Nh dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ và điểm cầu thành phần tại Nhà tạm giữ công an quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2023/TLST-HS ngày 31/3/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2023/QĐXXST-HS ngày 25/4/2023 với bị cáo:
Họ và tên: Bùi Văn N, sinh năm 1986. Nơi sinh: Cần Thơ; Giới tính: Nam;
Nơi cư trú: khu vực 11, phường CVL, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ. Trình độ học vấn: 02/12; Nghề nghiệp: Không;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;
Họ và tên cha: Bùi Văn L, sinh năm 1953 (Chết); Họ và tên mẹ: Trương Thị Th, sinh năm 1976 (Sống); Anh, chị, em ruột: 03 người; Vợ: Võ Thị Tr, sinh năm 1983; Con: 01 người, sinh năm 2013.
Tiền án: 01 lần, ngày 29/5/2018 bị Tòa án Nh dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ xử phạt 05 năm tù về tội: Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 2, Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/02/2022.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/01/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ, Công an quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
(Bị cáo có mặt tại điểm cầu thành phần) Bào chữa cho bị cáo: Ông Trần Hoàng B – Trợ giúp viên pháp lý thành phố Cần Thơ.
Người bị hại:
1/ Ông Trần Văn N, sinh năm 1986 (có đơn xin vắng).
Địa chỉ: ấp T, xã T, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang.
2/ Bà Nguyễn Thị Kiều OA, sinh năm 1995 (có mặt).
Địa chỉ: số 411, khu vực T, phường L, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
3/ Ông Thạch Út Sa LE, sinh năm 1987 (có đơn xin vắng).
Địa chỉ: ấp 4B, thị trấn B, huyện Châu Thành A, tỉnh Hậu Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Thế Nh, sinh năm 1988 (có mặt).
Địa chỉ: khu vực 11, phường CVL, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
Người làm chứng: Anh Trần Ngọc D, sinh năm 1998 (có mặt).
Địa chỉ: khu vực A, phường T, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do cần tiền để tiêu xài, nên Bùi Văn N đi tìm tài sản của người khác để lấy trộm, bán lấy tiền. Trong khoảng thời gian từ ngày 25 đến ngày 28/12/2022 Bùi Văn N đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Vào khoảng 01 giờ ngày 25/12/2022, Bùi Văn Nhịn một mình điều khiển xe môtô hiệu Yamha, loại Nouvo 3, biển số 65U2 - X đi tìm tài sản. Khi N đi đến cửa hàng xăng sinh học Ô Môn có địa chỉ tại Lô 2.7, khu công nghiệp Trà Nóc 2, thuộc khu vực Thới Thuận, phường T, quận Ô Môn, thấy cửa rào không khóa, phía trong sân để nhiều xe môtô các loại nên Nhịn điều khiển qua cây xăng một đoạn rồi dừng xe lại. N cất giấu xe rồi đi bộ lại kéo cổng rào đi vào sân. N đến chỗ để xe môtô, hiệu honda, loại Vision màu đen, biển số 65G1-X của ông Trần Văn N đậu ở sân rồi dùng tay mở cốp xe, thấy có giấy tờ xe bản chính nên N đã dẫn bộ chiếc xe ra ngoài đường cất giấu. Sau đó, N tiếp tục quay lại và lấy thêm một chiếc xe đạp hiệu Rockly đem ra ngoài đường.
Lúc này, N tiếp tục quan sát và phát hiện Chi nhánh Công ty Cổ phần Thương mại đầu tư dầu khí Nam Sông Hậu tại Cần Thơ ở gần đó có mở đèn, cổng rào mở, B vệ ngủ nên N đi vào và nhìn thấy một xe hiệu Inco, biển số 95E1 - X để sẵn chìa khóa của ông Thạch Văn Sa LE đậu ngay chốt B vệ nên N lén lút dẫn ra ngoài.
Sau khi lấy trộm được hai xe môtô và một xe đạp, N điều khiển xe hiệu Inco kè theo chiếc xe đạp chạy về nhà của Trần Ngọc D, sinh năm: 1998, trú: khu vực A, phường T, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ để gửi chiếc xe đạp và tiếp tục điều khiển xe hiệu Inco đến nhà trọ Thanh Thanh thuộc khu vực Thới Trinh, phường T, quận Ô Môn thành phố Cần Thơ để ở đó. Lúc này, Nhịn điện thoại cho ông Lê Thanh Liêm sinh năm: 1962, nơi cư trú: khu vực 15, phường CVL, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ làm nghề chạy xe honda ôm kêu chở Nhịn đến khu Công nghiệp Trà Nóc 2, trên đường đi Nhịn có nói với ông Liêm là bạn nhờ lấy xe về dùm nhưng quên đưa chìa khóa và kêu Liêm kè xe về giúp Nhịn một đoạn đường thì ông Liêm đồng ý. Khi đến chỗ đậu xe Vision, Nhịn nghe ông Liêm nói chuyện với Huỳnh Thanh Oai, sinh năm 1999, nơi cư trú: khu vực Hòa An, phường Thới Hòa, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ có nội dung tìm chỗ cầm xe dùm Oai nên Nhịn nói ông Liêm kêu Oai chạy xe đến để Nhịn cầm xe. Khi Liêm kè xe N qua khỏi cầu Cái Chôm thì gặp Oai đang chạy đến, N đồng ý cầm xe cho Oai với giá 500.000 đồng, đồng thời Nhịn nhờ Oai kè chiếc xe hiệu Vision về cầu Tắc Ông Thục và giao xe cho N. Sau đó, N thuê 01 phòng nghỉ rồi cất giấu chiếc xe Vision; N lấy xe của Oai chạy đến cầu huyện Đội giấu xe ở đó. N bắt xe ôm đến chỗ đậu xe Nouvo lấy xe chạy về nhà trọ Thanh Thanh thuê phòng nghỉ rồi đưa xe Nouvo và xe Inco vào phòng. Nhịn tháo biển số 95E1 – X của xe hiệu Inco rồi đem đến nơi cất giấu xe hiệu Vision để lấp vào xe này. Đến sáng cùng ngày, N chạy xe Nouvo đến nhà Mai Thanh Tươi (Kha LE), sinh năm: 1985, nơi cư trú: khu vực 02, phường CVL, quận Ô Môn nhờ Tươi đi cùng đến nhà trọ Thanh Thanh. Tại đây, Nhịn đưa xe Nouvo cho Tươi chạy về nhà, còn Nhịn đi vào phòng lấy xe Inco chạy đến nơi cất giấu xe Vision rồi lấy biển số xe Vision gắn vào xe Inco. Sau đó, N mang tất cả xe này về nhà để cất giấu. Đến ngày 29/12/2022, Nhịn lấy xe Vision và gắn đúng biển số lại và mang đến tiệm cầm đồ của Nguyễn Thế Nh, sinh năm: 1988, nơi cư trú: Khu vực 11, phường CVL, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ cầm lấy số tiền 6.000.000 đồng và nhờ Nh đi làm chìa khóa xe hết 300.000 đồng. Xe Inco và xe đạp vẫn tiếp tục để ở nhà và sau đó bị lực lượng Công an khám xét và thu giữ.
Vụ thứ 2: Vào chiều ngày 28/12/2022, Nhịn đến nhà của Trần Ngọc D tại khu vực A, phường T, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ, tại nhà của D Nhịn rủ D đi lấy trộm tài sản của người khác để tiêu xài cá Nh nhưng D không đồng ý. Sau đó, Nguyễn Thị Kiều OA chạy xe môtô, hiệu Yamaha, loại Excitter 150, màu xanh, biển số 65E1 - X đến nhà D để sử dụng ma túy, Nhịn tiếp tục rủ D lấy trộm xe của OA bán lấy tiền chia nhau tiêu xài thì bị D từ chối. Nhịn đi về nhà đến khoảng 22 giờ đêm tiếp tục quay lại nhà D chơi, Nhịn phát hiện xe của OA vẫn đậu ở trước nhà D, Nhịn ngồi chơi một lúc rồi đi về. Đến khoảng 02 giờ sáng ngày 29/12/2022, Nhịn đi bộ ra ngoài đường bắt xe ôm đến gần nhà của D và đi bộ vào nhà D. N đi đến chỗ để xe môtô của OA dùng mũi kéo bằng kim loại có đầu nhọn đem theo sẵn trong người mở ổ khóa điện xe OA thì bị gẫy mũi kéo trong ổ khóa xe. Sau đó, Nhịn dẫn bộ chiếc xe của OA ra ngoài đường, gặp một người thanh niên và nhờ người này kè xe giúp Nhịn về gần nhà máy Liên Hiệp thuộc khu vực 10, phường CVL, quận Ô Môn và trả công 100.000 đồng. N cất giấu xe tại chỗ đất trống và về nhà. Đến khoảng hơn 13 giờ cùng ngày, N lại lấy xe trộm được của OA dẫn bộ đến nhà của Đào Thanh Nhựt có địa chỉ tại khu vực 10, phường CVL, quận Ô Môn để gửi xe. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, Nhịn lấy biển số xe 95E1 - X của xe hiệu Inco đã trộm trước đó để lắp vào xe trộm được của OA. Sau đó, N dẫn bộ xe này đến Bệnh viện Đa khoa Ô Môn gửi. Đến khuya ngày 29/12/2022, D gặp Nhịn hỏi biết ai lấy trộm xe của OA thì cho chuộc lại với số tiền 5.000.000 đồng, Nhịn nói với D có nhìn thấy xe trong bãi xe Bệnh viện Ô Môn. Sau đó, D nói với OA thì OA báo Công an đến thu giữ tang vật.
Căn cứ kết luận định giá tài sản số: 06/KL – HĐĐGTS ngày 09/1/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng quận Ô Môn kết luận: 01 xe môtô hiệu Honda, loại Vision màu đen, biển số 65G1 – X có giá trị còn lại là: 21.333.000 đồng;
01 xe môtô hiệu Inco màu nâu, biển số 95E – X có giá trị còn lại là 4.500.000 đồng; 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter màu xanh – bạc – đen, biển số 65E1 – X có giá trị còn lại là 19.000.000 đồng; 01 xe đạp hiệu Rockly có giá trị còn lại là 800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản vào thời điểm xảy ra vụ trộm cắp có giá trị còn lại là 45.633.000 đồng.
Vật chứng thu giữ: Ngày 07/02/2023 Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ đã trả lại tài sản trộm cắp cho các bị hại. Hiện các bị hại không yêu cầu về phần dân sự, yêu cầu xử lý N theo đúng quy định pháp luật.
- 01 chiếc nón B hiểm màu đen, đã qua sử dụng.
- 01 chiếc nón kết màu đen, có chữ Gucci, đã qua sử dụng.
- 01 giấy căn cước công dân số 092086003X mang tên Bùi Văn N.
- 01 biển số xe 65H8-X.
Đối với Nguyễn Thế Nh khi cầm cố tài sản không biết đây là tài sản do N phạm tội mà có nên không xem xét giải quyết trong vụ án này. Hiện tại Nh yêu cầu N bồi thường số tiền là 6.300.000 đồng.
Đối với hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của Trần Ngọc D, hiện Công an phường T, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Viện kiểm sát Nh dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ tiếp tục yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận Ô Môn, làm rõ và xử lý. Vì vậy không đề cập xử lý ở vụ án này.
Tại bản Cáo trạng số 20/CT-VKSOM ngày 29 tháng 3 năm 2023, Viện kiểm sát Nh dân quận Ô Môn đã truy tố Bùi Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo Bùi Văn N thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Đồng thời, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội làm lại người tốt và đồng ý bồi thường cho anh Nguyễn Thế Nh 6.300.000 đồng.
Anh Nguyễn Thế Nh yêu cầu bị cáo Bùi Văn N bồi thường 6.300.000 đồng.
Người bào chữa cho bị cáo có gởi bài bào chữa trình bày: cha mẹ bị cáo không nghề nghiệp ổn định, gia đình khó khăn.
Về trình độ học vấn bản thân bị cáo chỉ học đến lớp 02. Do đó, trình đồ nhận thức pháp luật của bị cáo còn rất hạn chế. Mặc dù bị cáo biết được rằng trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo trộm do điều kiện gia đình hiện nay gặp khó khăn trong cuộc sống.
Trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi và tạo điều kiện cho cơ quan điều tra thu giữ vật chứng trả lại cho bị hại theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Qua đó cho thấy hành vi bị cáo phạm tội một phần do hoàn cảnh gia đình khó khăn, trình độ học vấn của bị cáo còn thấp, chưa hiểu được đấy đủ về kiến thức pháp luật.
Từ những phân tích trên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 ĐIều 51 Bộ luật hình sự. Tuyên cho bị cáo có một mức án phù hợp để thể hiện chính sách Nh đạo của Đảng và Nhà Nước tạo điều kiện cho bị cáo sớm dược về sống với gia đình.
Đại diện Viện kiểm sát Nh dân quận Ô Môn trình bày lời luận tội vẫn giữ quan điểm truy tố đối với các bị cáo theo tội danh và điều luật đã nêu trong cáo trạng. Đồng thời, phân tích những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Tuyên xử bị cáo Bùi Văn N mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù Về trách nhiệm dân sự: chủ sở hữu đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên đề nghị không xem xét giải quyết.
Đối với Nguyễn Thế Nh yêu cầu N bồi thường số tiền là 6.300.000 đồng. Tại phiên tòa, bị cáo N đồng ý bồi thường cho Nguyễn Thế Nh đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận.
Về xử lý vận chứng: Áp dụng: Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Trả cho bị cáo Bùi Văn N 01 giấy căn cước công dân số 092086003X mang tên Bùi Văn N.
Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc nón B hiểm màu đen, đã qua xử dụng; 01 chiếc nón kết màu đen, có chữ Gucci, đã qua xử dụng và 01 biển số xe 65H8-X.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng hình sự: Các quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, hành vi tố tụng của điều tra viên trong quá trình điều tra vụ án; quyết định tố tụng của Viện kiểm sát và hành vi tố tụng của Kiểm sát viên trong giai đoạn truy tố là đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
[2] Về căn cứ buộc tội: Tại phiên Tòa hôm nay lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người làm chứng, người bị hại và vật chứng thu giữ được.
Kết luận định giá tài sản số 06/KL – HĐĐGTS ngày 09/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng quận Ô Môn kết luận: 01 xe môtô hiệu Honda, loại Vision màu đen, biển số 65G1 – X có giá trị còn lại là: 21.333.000 đồng;
01 xe môtô hiệu Inco màu nâu, biển số 95E – X có giá trị còn lại là 4.500.000 đồng; 01 xe mô tô hiệu Yamaha, loại Exciter màu xanh – bạc – đen, biển số 65E1 – X có giá trị còn lại là 19.000.000 đồng; 01 xe đạp hiệu Rockly có giá trị còn lại là 800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản vào thời điểm xảy ra vụ trộm cắp có giá trị còn lại là 45.633.000 đồng. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm về hình sự theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn phù hợp.
[3] Về tính chất hành vi phạm tội: Hành vi của bị cao là nguy hiểm cho xã hội đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật B vệ, mọi hành vi chiếm đoạt trái pháp luật đối với tài sản của người khác đều phải bị xử lý nghiêm minh. Động cơ phạm tội của bị cáo là tham lam, mong muốn chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật để thỏa mãn nhu cầu cá Nh. Đây là lỗi cố ý trong ý thức phạm tội. Hành vi trên của bị cáo làm ảnh hưởng an ninh trật tự an toàn trong xã hội. Do đó, Viện kiểm sát Nh dân quận Ô Môn truy tố bị cáo về tội danh, điều luật nêu trong cáo trạng là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Về N lực chịu trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có đủ N lực chịu trách nhiệm hình sự do hành vi của bản thân gây ra. Bị cáo biết hành vi xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện, điều đó thể hiện sự liều lĩnh, xem thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy, việc điều tra truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là cần thiết, nhằm mục đích giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.
[5] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
[5.1] Tình tiết tang nặng: Bị cáo có Nh thân xấu, có 01 tiền án về hành vi trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nhưng bị cáo lại tiếp tục phạm tội và bị cáo phạm tội 02 lần. Vì vậy, Viện kiểm sát Nh dân quận Ô Môn đề nghị áp dụng tình tiết tang nặng cho bị cáo theo quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là phù hợp.
[5.2] Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà hôm nay bị cáo N đã thành khẩn khai báo tỏ thái độ ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử có xem xét đến tình tiết này để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự như đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp.
Để có tác dụng giáo dục răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội cần có một mức án nghiêm khắc, cần cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cho các bị cáo có thời gian ăn năn, hối cải về hành vi sai trái của mình, để từ đó biết sửa đổi bản thân, sống đặt mình trong khuôn khổ của pháp luật.
[6] Về xử lý vật chứng: Xét thấy đề nghị của Viện kiểm sát Nh dân quận Ô Môn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng: Điều 155; 268; 269 Bộ luật tố tụng hình sự, Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g, h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bùi Văn N 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn phạt tù tính từ ngày 02 tháng 01 năm 2023.
Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Bùi Văn N bồi thường cho Nguyễn Thế Nh 6.300.000 đồng (sáu triệu ba trăm ngàn đồng).
Về xử lý vận chứng: Áp dụng: Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
Trả cho bị cáo Bùi Văn N 01 giấy căn cước công dân số 092086003X mang tên Bùi Văn N.
Tịch thu tiêu hủy: 01 chiếc nón B hiểm màu đen, đã qua xử dụng; 01 chiếc nón kết màu đen có chữ Gucci đã qua xử dụng và 01 biển số xe 65H8-X.
Về án phí sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Bùi Văn N được chứng nhận hộ cận nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo và các đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án. Đối với các đương sự vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 24/2023/HS-ST
Số hiệu: | 24/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ô Môn - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về