TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 24/2022/HS-ST NGÀY 25/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 25 tháng 03 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 05/2022/TLST- HS ngày 13 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022 đối với các bị cáo:
1. Lê Văn S, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thuê trọ tại tổ dân phố Lý Tự Trọng, phường Ngô , thành phố Vĩnh , tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: lớp 1/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Chí Công ( tên gọi khác là Lê Văn Tuấn) và bà Trịnh Thị Nguyên; vợ: Chưa có; con: Có quan hệ với chị Trần Thị Hương có 01 con sinh năm 2012; tiền sự: Không - Tiền án: 02 tiền án + Bản án số 52/HSST ngày 25/3/2015, TAND Quận Hà Đông, thành phố Hà Nội xử phạt S 33 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (S thực hiện hành vi phạm tội trong khoảng thời gian từ ngày 5/8/2014 đến ngày 07/10/2014), tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 37.250.000 đồng); án phí HSST: 200.000 đồng; án phí DS/HS: 390.000 đồng; bồi thường cho anh Ngô Như Tuấn Anh số tiền 2.750.000 đồng; bồi thường cho anh Phạm Hồng Đức số tiền 2.200.000 đồng; bồi thường cho anh Hoàng anh D số tiền 2.817.000 đồng. S chấp hành xong án phạt tù ngày 13/7/2017. Ngày 21/7/2017, S chấp hành xong án phí HSST, án phí DS/HS:
590.000 đồng. Đối với khoản bồi thường thi hành án đến nay người được thi hành án không có yêu cầu thi hành án (Chưa được xóa án tích).
+ Bản án số 53/HSST ngày 10/7/2019, TAND huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên xử phạt Lê Văn S 2 năm tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (ngày 5/3/2019 phạm tội); án phí HSST: 200.0000 đồng; truy thu: 500.000 đồng và lãi suất chậm thi hành án. Ngày 06/02/2021, S chấp hành xong án phạt tù. Ngày 30/3/2021, thi hành xong khoản án phí và truy thu; ngày 31/5/2021 S chấp hành xong khoản lãi suất chậm thi hành án (Chưa được xóa án tích, bản án này áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm).
- Nhân thân:
+ Ngày 26/07/2008, Lê Văn S bị Công an thị xã Hà Đông đưa vào trường giáo dưỡng thời gian 24 tháng, ngày 01/3/2007 chấp hành xong.
+ Bản án số 211/HSST ngày 16/11/2007, TAND TP. Hà Đông xử phạt 6 tháng tù cho hưởng án treo, 12 tháng thử thách về tội Trộm cắp tài sản, án phí 50.000 đồng.
+ Bản án số 70/HSST ngày 21/4/2008, TAND huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội xử phạt 8 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, nộp án phí HSST: 50.000 đồng (trị giá tài sản trộm cắp trị giá 4.200.000 đồng). Chấp hành xong án phạt tù ngày 8/3/2009, thi hành xong khoản án phí HSST vào ngày 9/9/2008.
+ Bản án số 107/HSST ngày 30/6/2009, Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt Lê Văn S 6 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, chịu án phí HSST: 50.000 đồng (trị giá tài sản trộm cắp là 3.090.000 đồng và 6USD), thi hành xong khoản án phí HSST vào ngày 29/3/2010.
+ Bản án số 120/HSST ngày 17/08/2010, Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xử phạt S 8 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, án phí HSST: 200.000 đồng (trị giá tài sản trộm cắp là 900.000 đồng). Ngày 22/7/2011 S đã nộp án phí HSST.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/11/2021 đến nay, hiện đang bị giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, “có mặt”.
2. Nguyễn Đức H, sinh ngày 14 tháng 11 năm 2002; Hộ khẩu thường trú: Thôn Xuân , xã X, huyện Lập , tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thiệu Thái và bà Nguyễn Thị Thanh; vợ: Nguyễn Thị Thảo; Con: có 01 con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/11/2021 đến nay, hiện đang bị giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, “có mặt”.
Bị hại:
Anh Nguyễn Văn Qu, sinh năm 2003 Địa chỉ: Xóm Phúc , xã Phúc , thị xã Phổ, tỉnh Thái Nguyên, “vắng mặt”. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1965.
Địa chỉ: Xóm Phúc , xã Phúc , thị xã Phổ, tỉnh Thái Nguyên, “vắng mặt”.
Anh Vương Anh D, sinh năm 1997.
Địa chỉ: Phố Thanh Giã II, phường Khai, thành phố Vĩnh , tỉnh Vĩnh Phúc, “vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Văn S hiện đang cùng gia đình thuê trọ tại tổ dân phố Lý Tự Trọng, phường Ngô Quyền, thành phố Vĩnh Yên (S không có giấy tờ tùy thân, không xác định được quê quán và HKTT) và Nguyễn Đức H là bạn của nhau. Khoảng 22h30’ ngày 27/8/2021 S ngồi chơi tại phòng trọ của H ở Tổ dân phố Mậu Thông, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc thì H rủ S đi trộm cắp tài sản, S đồng ý. Đến khoảng 00h30’ ngày 28/8/2021, S và H chuẩn bị 01 chiếc cờ lê bằng kim loại sáng màu, dài 11,5cm , 01 chiếc vam phá khóa bằng kim loại dài khoảng 10cm để sử dụng phá ổ khóa điện xe mô tô. H lấy 01 chiếc khẩu trang y tế che vào biển kiểm soát của xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu S xanh - đen - bạc, BKS: 88K1 - 382.23 là xe H mượn từ trước của anh Vương Anh D, để tránh sự phát hiện. Sau đó, H điều khiển xe mô tô chở S đi đến khu vực xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên đến khu nhà trọ của gia đình ông Đào Thế Nhân ở thôn Thiện Kế, xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên phát hiện có 04 chiếc xe mô tô dựng ở ngoài đường, giáp với lối cổng ra vào, quan sát thấy không có người trông giữ, H nói với S “Tí nữa lấy con Wave Blade nha” thì S đồng ý. Sau đó, H điều khiển xe mô tô đến đứng đối diện cách vị trí 04 chiếc xe mô tô khoảng 02m, S xuống xe đi đến dùng vam phá khóa và cờ lê chuẩn bị trước phá được ổ khóa điện của chiếc xe mô tô Honda Blade, màu S đen, BKS: 20H1 - 496.70 của anh Nguyễn Văn Qu hiện đang thuê phòng trọ nhà ông Nhân. Sau đó, S cất cờ lê và vam phá khóa vào túi quần thì lúc này có anh Nguyễn Đình Hưng chạy từ vườn bạch đàn ở đối diện khu nhà trọ ông Nhân đến phát hiện thấy H và S đang thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, anh Hưng truy hô to “Trộm, trộm”. Thấy vậy, H một mình điều khiển xe mô tô bỏ chạy, còn S chạy bộ vào bên trong vườn bạch đàn, anh Hưng chạy đuổi theo được khoảng 300 - 400 mét thì S bị ngã xuống hố đất, đồng thời lúc này có nhiều người dân chạy đến bắt giữ được S và trình báo cơ quan Công an huyện Bình Xuyên. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tạm giữ của Lê Văn S 01 cờ lê bằng kim loại trên bề mặt có in chữ foroed 8 Steel china, đường kính 1,25cm, chiều dài cờ lê 11,5cm; tạm giữ xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade, màu S đen, BKS: 20H1 - 496.70 để phục vụ công tác điều tra. Nguyễn Đức H bỏ chạy trốn thoát đến ngày 28/9/2021 đến cơ quan điều tra làm việc.
Ngày 06/10/2021, cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tạm giữ của anh Vương Anh D 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc BKS:
88K1-382.23 cùng 01 giấy chứng nhận đăng ký và 01 giấy bán xe ngày 04/8/2020 để phục vụ công tác điều tra.
Ngày 01/9/2021, cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Xuyên có Yêu cầu định giá tài sản đề nghị Hội đồng định giá tài sản huyện Bình Xuyên định giá xe mô tô mà S và H chiếm đoạt. Ngày 07/9/2021, Hội đồng định giá tài sản huyện Bình Xuyên có Kết luận định giá số 114, kết luận: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu đen BKS: 20H1-496.70 trị giá 7.500.000 đồng.
Tại cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Xuyên các bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu đen BKS: 20H1-496.70, quá trình điều tra xác định ông Nguyễn Văn K (là bố đẻ của anh Nguyễn Văn Qu) là chủ sở hữu hợp pháp. Ngày 8/10/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô cho ông Ký, sau khi nhận lại tài sản, ông Ký không có yêu cầu đề nghị gì thêm.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc BKS: 88K1- 382.23, quá trình điều tra xác định anh Vương Anh D là chủ sở hữu hợp pháp. Ngày 27/8/2021, H mượn chiếc xe mô tô của anh D để đi về quê. Sau đó dùng chiếc xe mô tô này để cùng S đi trộm cắp tài sản anh D không biết. Ngày 04/11/2021, cơ quan cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe mô tô BKS:
88K1-382.23 cho anh D. Sau khi nhận lại tài sản anh D không có yêu cầu đề nghị gì thêm.
Đối với 01 cờ lê bằng kim loại trên bề mặt có in chữ foroed 8 Steel china, đường kính 1,25cm, chiều dài cờ lê 11,5cm là công cụ H và S dùng để trộm cắp tài sản nên đề nghị tịch thu tiêu huỷ.
Đối với chiếc vam phá khoá bằng kim loại S dùng để phá ổ khoá điện trộm cắp tài sản, khi bỏ chạy S đã đánh rơi. Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra không thu giữ được nên không đề cập xử lý.
Đối với chiếc ổ khóa điện xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu đen BKS:
20H1-496.70 thiệt hại nhỏ nên ông Ký không yêu cầu S, H phải bồi thường. cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.
Trong vụ án này, S khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì bị phát hiện, S bỏ chạy bị ngã xuống hố đất dẫn đến gãy hai cẳng tay. Quá trình điều tra S đã từ chối giám định thương tích. Do vậy, cơ quan cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.
Bản cáo trạng số 12/CT-VKSBX ngày 12 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên đã truy tố Nguyễn Đức H ra trước Tòa để xét xử công khai về tội “ Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, truy tố Lê Văn S ra trước Tòa để xét xử công khai về tội “ Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự .
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố các bị cáo Lê Văn S và Nguyên Đức H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 15; các khoản 1,3 Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Lê Văn S từ 02 năm 03 tháng tù đến 02 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam ngày 02/11/2021.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 15; các khoản 1,3 Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H từ 06 tháng tù đến 08 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam ngày 02/11/2021.
Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo. Về án phí: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.
Ý kiến của những người tham gia tố tụng:
Bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, quá trình điều tra đều khai thống nhất như lời khai của các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố:
Về hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên, của kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong vụ án là hợp pháp.
[2] Xét thấy tại phiên toà các bị cáo Lê Văn S và Nguyễn Đức H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau: Khoảng hơn 1h ngày 28/8/2021, tại trước cổng khu nhà trọ của gia đình ông Đào Thế Nhân ở thôn Thiện Kế, xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Đức H cùng Lê Văn S đã lén lút cùng nhau trộm cắp 01 xe mô tô mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu đen BKS: 20H1-496.70 trị giá 7.500.000 đồng của anh Nguyễn Văn Qu.
Trong vụ án này, Nguyễn Đức H là người khởi xướng, chuẩn bị van phá khóa, khẩu trang che biển số xe, canh gác, còn S là người chuẩn bị cờ lê và trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
[3] Xét lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ như lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cùng các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Lê Văn S đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. Hành vi của Nguyễn Đức H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự có khung hình phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
[4] Xét thấy hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm các bị cáo trước pháp luật mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
[5] Xét nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của từng bị cáo, thấy rằng:
Đối với Lê Văn S: Là người có nhân thân xấu, nhiều lần phạm tội trộm cắp tài sản và 01 lần phạm tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, hiện nay còn hai bản án chưa được xóa án tích, đã tái phạm mà lại tiếp tục phạm tội. Nên lần phạm tội này của bị cáo bị kết án theo tình tiết định khung tăng nặng là tái phạm nguy hiểm theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo như đề nghị của Viện kiểm sát mới có tác dụng giáo dục giúp bị cáo sửa chữa lỗi lầm trở thành người có ích.
Đối với Nguyễn Đức H: Bản thân chưa có tiền án, tiền sự, nhưng là người khởi xướng việc phạm tội, đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét thấy cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm trở thành người có ích.
Bị cáo S và bị cáo H đang phá khóa nhưng chưa lấy được tài sản thì bị phát hiện nên hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt nên cần áp dụng quy định của pháp luật về phạm tội chưa đạt để áp dụng hình phạt đối với các bị cáo.
Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về phần hình phạt đối với các bị cáo.
[6] Về việc bồi thường và xử lý vật chứng:
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu đen BKS: 20H1-496.70, quá trình điều tra xác định ông Nguyễn Văn K (là bố đẻ của anh Nguyễn Văn Qu) là chủ sở hữu hợp pháp. Ngày 8/10/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe mô tô cho ông Ký, và anh Quý, sau khi nhận lại tài sản, ông Ký và anh Quý không có yêu cầu đề nghị gì thêm, nên không xem xét.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc BKS: 88K1- 382.23, H mượn của anh Vương Anh D, để về quê, sau đó dùng chiếc xe mô tô này để cùng S đi trộm cắp tài sản, anh D không biết H dùng xe để đi trộm cắp tài sản. Ngày 04/11/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe mô tô BKS: 88K1-382.23 cho anh D. Sau khi nhận lại tài sản anh D không có yêu cầu đề nghị gì thêm, nên không xem xét.
Đối với 01 cờ lê bằng kim loại trên bề mặt có in chữ foroed 8 Steel china, đường kính 1,25cm, chiều dài cờ lê 11,5cm là công cụ H và S dùng để trộm cắp tài sản nên cần tịch thu, tiêu huỷ.
Đối với chiếc vam phá khoá bằng kim loại S dùng để phá ổ khoá điện trộm cắp tài sản, khi bỏ chạy S đã đánh rơi. Quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra không thu giữ được nên không đề cập xử lý.
Đối với 01 ổ khóa điện xe mô tô nhãn hiệu Honda Blade màu đen BKS:
20H1-496.70, bị S cạy phá, thiệt hại nhỏ nên ông Ký và anh Quý không yêu cầu S, H phải bồi thường, nên không xem xét.
Trong vụ án này, S khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản thì bị phát hiện, S bỏ chạy bị ngã xuống hố đất dẫn đến gãy hai cẳng tay. Quá trình điều tra S đã từ chối giám định thương tích. Do vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra không đề cập xử lý là phù hợp.
Qua xác minh, H và S đều không có nghề nghiệp, thu nhập, không có tài sản gì nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[7] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố các bị cáo Lê Văn S và Nguyễn Đức H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 15; các khoản 1,3 Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Lê Văn S 02 ( Hai ) năm 06 ( Sáu ) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 02 tháng 11 năm 2021.
Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 15; các khoản 1,3 Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 07 ( Bảy ) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 02 tháng 11 năm 2021.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu huỷ 01 cờ lê bằng kim loại trên bề mặt có in chữ foroed 8 Steel china, đường kính 1,25cm, chiều dài cờ lê 11,5cm là công cụ H và S dùng để trộm cắp tài sản.
( Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/01/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên).
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án Buộc bị cáo Lê Văn S và Nguyễn Đức H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 24/2022/HS-ST
Số hiệu: | 24/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về