Bản án về tội trộm cắp tài sản số 235/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 235/2024/HS-PT NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 625/2023/TLPT-HS ngày 09 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Trung N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 483/2023/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Trung N; Giới tính: Nam; Sinh năm 1982, tại tỉnh Bến Tre; Nơi đăng ký thường trú: 231/26 ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: 2 N, Phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Bảo vệ; Con ông Nguyễn Trung C, sinh năm 1951 và bà Phạm Ngọc L, sinh năm 1954; Vợ: Nguyễn Thị Bích H, sinh năm 1984 (Ly hôn); Con: có 02 người, lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

(Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo, kháng nghị, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Trung N là nhân viên bảo vệ kiêm lễ tân, dọn phòng tại Khách sạn V, địa chỉ: B N, phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Khoảng 00 giờ ngày 15/02/2023, sau khi anh Vương Tiến T, là lễ tân khách sạn, kêu N mang 02 bàn chải đánh răng đến phòng 501. Khi đến nơi, thấy cửa không khóa, chỉ khép hờ nên N gõ cửa và nói mình là nhân viên đến đưa bàn chải đánh răng nhưng không thấy ai trả lời nên đẩy cửa bước vào và để 02 bàn chải đánh răng vào nhà vệ sinh. Khi N quay ra thấy giữa 02 giường ngủ trong phòng có 01 balo nên tiến lại mở balo ra thì thấy bên trong có 01 laptop màu xám, có hình quả táo khuyết (hiệu Apple) nên lấy laptop giấu vào sau lưng áo rồi đi ra khỏi phòng 501, đi xuống phòng bảo vệ ở tầng trệt, bỏ máy laptop vừa lấy trộm được vào balo của N rồi tiếp tục làm việc.

Khoảng 05 giờ 40 phút ngày 15/02/2023, N mang máy laptop đã lấy trộm được ra chợ N2 bán, nhưng không có ai mua nên N điện thoại cho anh Trần Tôn H1, nói có máy laptop mới nhặt được muốn bán. Anh H1 đồng ý và kêu H1 mang máy laptop đến cửa hàng của anh H1 tại số A L, Phường G, Quận A để xem máy. Sau khi kiểm tra, anh H1 đồng ý mua với giá 3.000.000 đồng, N nhận tiền rồi đi về. Số tiền này N sử dụng tiêu xài cá nhân.

Khoảng 07 giờ ngày 15/02/2023, ông Flury Frank C1, sau khi ra ngoài về phòng 501 của khách sạn thì phát hiện mất máy laptop nên nhờ bạn là anh Phan Thế H2 định vị xem máy tính hiện đang ở đâu và đến công an P, Quận A trình báo vụ việc.

Công an P, Quận A cùng anh Phan Thế H2 tiến hành định vị Icloud (hệ thống định vị của máy tính) phát hiện định vị của máy laptop tại số nhà A L, Phường G, Quận A, là chỗ của anh Trần Tôn H1, nên mời anh H1 về trụ sở làm việc và anh H1 đã tự nguyện giao nộp máy laptop nêu trên để phục vụ công tác điều tra. Sau đó vụ việc được chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra công an Q để điều tra làm rõ.

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 16/KL-HĐĐGTS ngày 03/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận C2 kết luận: Máy tính xách tay nhãn hiệu Apple, loại MacbookPro 16 inch with Touch Bar (M: A2141); cấu hình CPU Core i7/Ram 16GB/SSD 512GB; Serial: CO2FV36DMD6R, tình trạng đã qua sử dụng, thời điểm định giá tháng 02/2023 có giá 24.467.000 (Hai mươi bốn triệu bốn trăm sáu mươi bảy ngàn) đồng.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 483/2023/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2023 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung N 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 25/9/2023 bị cáo Nguyễn Trung N kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Trung N vẫn giữ yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo, với lý do: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo đang là lao động chính trong gia đình. Mặc dù khi ly hôn thì vợ bị cáo nuôi con, nhưng do vợ bị cáo bị bệnh nên hiện nay bị cáo đang chăm sóc vợ, và trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc 02 con nhỏ đang tuổi đi học (sinh năm 2009 và 2011), có xác nhận của chính quyền địa phương; Nếu bị cáo phải chấp hành hình phạt tù giam thì các con của bị cáo sẽ bị ảnh hưởng đến việc học.

Trong phần tranh luận:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Bị cáo có hành vi lấy trộm máy tính xách tay của khách nước ngoài trị giá hơn 24 triệu đồng, nên tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo là có căn cứ. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tất cả các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, và xử phạt bị cáo mức án thấp nhất của khung hình phạt nên không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Theo tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thể hiện hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Trung N như sau:

Để có tiền tiêu xài, khoảng 00 giờ ngày 15/2/2023, tại Phòng 501 khách sạn V, địa chỉ số B N, phường V, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Nguyễn Trung N đã lén lút lấy trộm một máy tính xách tay hiệu Apple loại Macbook Pro, trị giá 24.467.000 đồng của ông Flury Frank C1 - quốc tịch Đ.

Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

[2] Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:

[2.1] Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Trung N là nguy hiểm cho xã hội, không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật trừng trị, nhưng chỉ vì hám lợi bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, nên cần có mức án nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình giải quyết vụ án bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã được thu hồi trả lại cho người bị hại, là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo mức 06 tháng tù là mức thấp nhất của khung hình phạt.

[2.2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày hiện nay bị cáo đang làm bảo vệ tại trung tâm ngoại ngữ, bị cáo và vợ đã ly hôn, nhưng do vợ bị cáo bị bệnh không nuôi được các con nên đã giao lại cho bị cáo nuôi dưỡng, chăm sóc. Ngoài ra, bị cáo còn cung cấp tài liệu có xác nhận của Ủy ban nhân dân Phường H3, Quận A với nội dung: Các con của bị cáo là bé Nguyễn Hạ Hà N1, sinh năm 2009 và bé Nguyễn Hạ Uyên T1, sinh năm 2011 hiện đang ở với bị cáo tại địa chỉ 2 N, Phường H, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, và hồ sơ bệnh của bà Nguyễn Thị Bích H (vợ cũ của bị cáo).

Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy: Theo tài liệu mà bị cáo cung cấp thể hiện bị cáo đang nuôi 02 con nhỏ, nên việc xử phạt hình phạt tù giam đối với bị cáo sẽ ảnh hưởng đến việc cuộc sống, học tập của các con bị cáo. Ngoài ra, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có công việc ổn định, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là 06 tháng tù (là mức thấp nhất của khung hình phạt). Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo.

[3] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa; Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo; Sửa bản án sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[5] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015,

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trung N;

Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 483/2023/HS-ST ngày 22/9/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần hình phạt đối với bị cáo.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trung N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung N 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo cho chính quyền địa phương là Ủy ban nhân dân Phường H3, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92, Điều 68 Luật thi hành án hình sự.

Nếu bị cáo được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Trung N không phải chịu. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

(Đã giải thích quy định về án treo) 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

133
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 235/2024/HS-PT

Số hiệu:235/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về