Bản án về tội trộm cắp tài sản số 235/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

 BẢN ÁN 235/2022/HS-ST NGÀY 12/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12/8/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 223/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 238/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022, đối các bị cáo:

1. Mai Xuân T - Sinh năm 1972 tại T; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Số nhà 14/61 đường T, phường L, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: LĐTD; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Mai Văn Đ (chết) và bà: Hồ Thị L (đã chết); vợ: Nguyễn Thị H (đã ly hôn) và có 02 con (con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2002); tiền án: Ngày 20/4/2009 bị TAND huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “ Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” (bị cáo chưa chấp hành xong phần dân sự); tiền sự: Ngày 24/3/2021 Công an phường Lam Sơn, thành phố T, tỉnh T Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”; nhân thân: Ngày 28/4/2008 bị TAND TP. T xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; Ngày 22/7/2010 bị TAND huyện Tĩnh Gia, tỉnh T xử phạt 39 tháng tù giam về tội “ Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; ngày 23/3/2022 Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Hiện bị cáo đang chấp hành hình phạt tù trong vụ án khác kể từ ngày 12/5/2022, có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Ngọc H - Sinh năm 1970 tại Thái Nguyên; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Số nhà 120/122 đường B, phường H, thành phố T, tỉnh T; nghề nghiệp: LĐTD; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Ngọc B (chết) và bà: Phạm Thị L; vợ: Thiều Thị T và có 01 con sinh năm 2008; tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 31/12/2021 Công an thành phố T, tỉnh T Quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”; nhân thân: Năm 1994 bị TAND thành phố Thái Nguyên xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “sử dụng trái phép chất ma túy”; năm 2004 bị TAND quận Thanh Xuân, thành phố H Nội xử phạt 30 tháng tù về tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo được đưa vào cơ sở cai nghiện số 1 tỉnh T quản lý trong thời gian lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc kể từ ngày 02/8/2022 có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Công ty Cổ phần thương mại xây lắp Công nghiệp T.

Địa chỉ: Tầng KTM, nhà CT1 khu N, phường V, quận H, thành phố H Nội. Đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Trọng Q – Giám đốc Đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Duy M – Chuyên viên phòng kỹ thuật – An toàn (vắng).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn T – Sinh năm 1956(vắng) Trú tại: Thôn H, xã T, huyện T, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ ánđược tóm tắt như sau:

Khoảng 23h00 ngày 02/01/2022, sau khi ăn đêm xong Mai Xuân T dùng xe mô tô BKS 36H9-xxxx chở Nguyễn Ngọc H đi trên các tuyến đường của thành phố T mục đích là tìm sơ hở để trộm cắp tài sản. Đến khoảng 1h45 ngày 03/01/2022 khi đến trước số nhà 189A Thành Thái, phường Đ, thành phố T, T và H thấy một đoạn dây điện hạ thế ngầm L Cu/XLPE/PVC 4x35mm 0,6/1KV tròn, màu đen của Công ty Cổ phần thương mại xây lắp Công nghiệp T có địa chỉ tại tầng KTM, nhà CT1 khu Nàng Hương, phường Văn Quán, quận H Đông, thành phố H Nội đang vắt qua tường rào chờ đầu mối nên T dừng xe lại, lấy cưa sắt đang để trên xe đưa cho H, H dùng cưa sắt cưa trộm được 2,3m dây điện. Khi T và H đang cuộn dây điện mang đi tiêu thụ thì bị tổ công tác phòng PK02-CA tỉnh T phối hợp với Công an phường Đ phát hiện lập biên bản và thu giữ tang vật.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 24/KL-HĐĐGTS ngày 08/3/2022 của Hội đồng định giá tài sảnỦy ban nhân dân thành phố T kết luận:

“1. 2,3m (hai phẩy ba) dây cáp điện hạ thế ngầm L Cu/XLPE/PVC 4x35mm 0,6/1KV. Giá trị tài sản: 1.065.270 đồng”.

Tại bản cáo trạng số: 172/CTr-VKS ngày 30/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá đã truy tố Mai Xuân T và Nguyễn Ngọc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS;

Tại phiên tòa đại diện VKS vẫn giữ nguyên quyết định truy tố; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58; Điều 56 BLHS đối với Mai Xuân T; khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 BLHS đối với Nguyễn Ngọc H Về hình phạt VKS đề nghị xử phạt Mai Xuân T mức án từ 09 - 12 tháng tù tổng hợp với 09(chín) tháng tù tại bản án số 106/2022/HS-ST ngày 23/3/2022 của TAND thành phố T. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 18 - 21 tháng tù; Nguyễn Ngọc H từ 07 - 10 tháng tù.

Ngoài ra VKS còn đề nghị buộc các bị cáo phải chịu án phí và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, không tranh luận gì với đại diện VKS.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, tuy tố, xét xử đã được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến khiếu nại gì.

[2] Về hành vi phạm tội:

Khoảng 1h45 ngày 03/01/2022 tại trước số nhà 189A Thành Thái, phường Đ, thành phố T, Mai Xuân T và Nguyễn Ngọc H phát hiện một đoạn dây điện hạ thế ngầm L Cu/XLPE/PVC 4x35mm 0,6/1KV tròn, màu đen của Công ty Cổ phần thương mại xây lắp Công nghiệp T trị giá 1.065.270 đồng, không có người trong coi nên đã dùng cưa sắt cắt đoạn dây mang đi tiêu thụ thì bị tổ công tác phòng PK02-CA tỉnh T cùng với Công an phường Đ phát hiện bắt quả tang.

Mặc dù giá trị tài sản các bị cáo trộm cắp dưới 2.000.000đ, nhưng Mai Xuân T và Nguyễn Ngọc H có một tiền sự về hành vi trộm cắp tài sản chưa được xóa. Nên hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 BLHS như cáo trạng của VKSND thành phố T truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội: Lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu trong việc quản lý tài sản, các bị cáo đã lén lút trộm cắp rồi nhanh chóng tẩu thoát. Hnh vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân. Vì vậy tính chất vụ án là nghiêm trọng cần phải xử lý nghiêm minh.

Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội không có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ nên chỉ đồng phạm mang tính giản đơn. Tuy nhiên khi xem xét hình phạt cần áp dụng Điều 58 BLHS để phân hóa vai trò của từng bị cáo. Các bị cáo cùng trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp nên vai trò của các bị cáo là như nhau. Tuy nhiên bị cáo Mai Xuân T có một tiền án chưa được xóa nên mức hình phạt của T phải cao hơn H là phù hợp.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Nguyễn Ngọc H không có tình tiết tăng nặng. Năm 2009 bị cáo Mai Xuân T bị TAND huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “ Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”, phần dân sự bị cáo bồi thường 3.500.000đ, nhưng đến nay bị cáo chưa thực hiện xong nghĩa vụ dân sự đối với bị hại. Do đó lần phạm tội này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Căn cứ vào nhân thân, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo cần áp dụng Điều 38 BLHS để cách ly các bị cáo khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung.

Ngoài lần phạm tội này, ngày 23/3/2022 Mai Xuân T còn bị TAND thành phố T xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó khi quyết định hình phạt cần áp dụng Điều 56 BLHS để tổng hợp với 09 tháng tù tại bản án số:106/2022/HS-ST ngày 23/3/2022 của TAND thành phố T, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án.

Đối với Nguyễn Ngọc H, trong thời gian tại ngoại được đưa vào cơ sở cai nghiện số 1 tỉnh T quản lý trong thời gian lập hồ sơ áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc kể từ ngày 02/8/2022.

[5] Phần dân sự: Theo báo cáo của bị hại tài sản bị cáo trộm cắp đã nhận lại đầy đủ và không yêu cầu gì, do đó cần công nhận phần dân sự giữa bị cáo và bị hại đã giải quyết xong.

[6] Về xử lý vật chứng:

Chiếc xe moto BKS 36H9-xxxx T khai khoảng tháng 12 năm 2021 T mua chiếc xe của một người đàn ông bán sắt vụn (không biết tên tuổi, địa chỉ) qua đường Tống Duy T1, phường Lam Sơn, thành phố T với giá 500.000đ. Quá trình xác minh xác minh anh Lê Văn T sinh năm 1956 trú tại xã Thọ Dân, huyện Triệu Sơn, tỉnh T mua và đăng ký sử dụng chiếc xe BKS 36H9- xxxx. Sau đó anh T đã bán chiếc xe cho một người thanh niên (không nhớ tên tuổi, địa chỉ) với giá khoảng 7.000.000đ. Vì vậy xác định xe moto BKS 36H9-xxxx là tài sản của T, T dùng xe làm phương tiện phạm tội và chiếc cưa sắt khung màu đỏ được quấn vải màu trắng dài 41cm, phần lưỡi cưa màu trắng dài 30cm các bị cáo dùng cắt dây điện, đây là công cụ phạm tội nên căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS để tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

[7] Về án phí: Các bị cáo phải nộp án phí HSST qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015 (đối với các bị cáo); điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56 BLHS đối với Mai Xuân T; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí tòa án.

Tuyên bố: Bị cáo Mai Xuân T, Nguyễn Ngọc H phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt:

- Mai Xuân T 10 (mười) tháng tù tổng hợp với 09(chín) tháng tù tại bản án số 106/2022/HS-ST ngày 23/3/2022 của TAND thành phố T. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 19 (mười chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/5/2022.

- Nguyễn Ngọc H 07(bảy) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù từ ngày 12/8/2022.

Vật chứng:

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 xe máy màu đỏ mận (màu nâu) được gắn biển kiểm soát 36H9-xxxx, trên lóc máy có chữ HONDA. Theo biên bản làm việc của Công an thành phố T thể hiện: Xe không còn số khung, số máy tại vị trí cà số. Tình trạng xe: Xe không có yếm, không có mặt nạ phía trước xe, xe không gương chiếu hậu, yên xe bị rách, đèn xe phía trước và sau đều vỡ, vành xe bị cũ gỉ nhiều; 01 cưa sắt bằng kim loại, khung màu đỏ, phần tay cầm được quấn vải màu trắng.

Hiện số vật chứng trên đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T, theo biên bản giao nhận vật chứng số: 165/2022/THA ngày 29/7/2022 giữa Công an thành phố T với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T.

Án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 235/2022/HS-ST

Số hiệu:235/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về