Bản án về tội trộm cắp tài sản số 235/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG - TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 235/2022/HS-ST NGÀY 09/08/2022  VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 228/2022/TLST-HS ngày  04  tháng  7   năm  2022  theo   Quyết  định  đưa  vụ  án  ra  xét   xử  số: 221/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Phan Chí D, sinh năm 1983 tại Khánh H; Nơi cư trú: Tổ 2 thôn Phú B, xã  Vĩnh T, Nha T, tỉnh Khánh H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 7/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; con  ông Phan Văn T, sinh năm 1948, con bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1953;

Tiền án: Bản án số 181/2020/HSST ngày 30/7/2020, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/4/2021. Đã đóng án phí ngày 14/01/2021.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Bản án số 177/HSST ngày 10/10/2002 bị Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cướp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 22/7/2004. Đã đóng án phí và tiền sung quỹ ngày 10/3/2015.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/01/2022 đến ngày 26/01/2022.

Hiện bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Quốc T, sinh năm 1997 tại Khánh H; Nơi cư trú: Số 39 đường Liên H, tổ 3 Xuân L, xã Vĩnh N, Nha T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1972, Con bà Huỳnh Thị Ngọc H, sinh năm 1972 (đã chết);

Tiền án, tiền sự: Không.

1   Nhân thân: Ngày 13/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang đình chỉ bị can, đình chỉ điều tra vụ án đối với Nguyễn Quốc T về hành vi cố ý gây thương tích.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/01/2022. Có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại: : Huỳnh Thị T, sinh năm 1993  Địa chỉ: 606 đường 23/10 xã Vĩnh H, Nha T. Vắng mặt.

* Người có quyền và nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Xuân T, sinh năm 1959  Địa chỉ: 85 Trịnh P, Tân L, Nha T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08h00 ngày 20/01/2022, Phan Chí D điều khiển xe máy dạng Dream, biển kiểm soát 79N1-8780 rủ Nguyễn Quốc T đi trộm cắp tài sản, T đồng ý. Đến khoảng 11 giờ 00 cùng ngày, cả hai đi ngang qua quán cơm chay Viên Giác, địa chỉ 606 đường 23/10 xã Vĩnh H, thành phố Nha T thấy quán đông người nên D dừng xe bên ngoài để T ngồi trên xe cảnh giới, D đi vào quán thấy ai sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi vào quán D thấy 01 chiếc điện thoại hiệu Samsung Galaxy A50 màu xanh đen của chị Huỳnh Thị T đang để trên bậc cầu thang của quán, không ai trông coi nên Dũng lấy trộm bỏ vào túi rồi đi ra ngoài, điều khiển xe máy chở Thắng đi tìm nơi tiêu thụ. Dũng và Thắng đến cửa hàng điện thoại T , địa chỉ  16 Tô Hiến T, phường Tân L, thành phố Nha T đi vào bán. Lúc này tổ tuần tra phòng, chống tội phạm – Đội cảnh sát Hình sự Công an thành phố Nha Trang phát  hiện nghi vấn và đưa D, T về cơ quan Công an làm việc. Tại Cơ quan Công an, D  và T đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản nêu trên.

Tại bản kết luận định giá số 17/HĐĐG ngày 21/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Nha Trang xác định 01 (một) điện thoại hiệu Samsung Galaxy A50 màu xanh đen có giá 3.374.800đồng (Ba triệu ba trăm bảy mươi bốn nghìn tám trăm đồng).

Tại bản cáo trạng số 195/CT-VKSNT ngày 01/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã truy tố các bị cáo Phan Chí D và Nguyễn Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đã giữ nguyên kết luận truy tố các bị cáo Phan Chí D và Nguyễn Quốc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Phan Chí D, tuyên phạt bị cáo D từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù; Áp dụng điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Quốc T, tuyên phạt bị cáo T từ 09 (chín) đến 12 (mười hai) tháng tù.

Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và  xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, vắng mặt bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, xét thấy việc vắng mặt của những người này không trở ngại cho việc giải quyết toàn bộ vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt những người này theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi tố tụng của những người tiến hành tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật hình sự.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Theo cáo trạng truy tố cho thấy, tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng truy tố phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ để xác định: Khoảng 11 giờ 00 phút ngày 20/01/2022, tại Quán cơm chay Viên Giác số 606 đường 23/10 xã Vĩnh H, thành phố Nha T, tỉnh Khánh H, Phan Chí D cùng Nguyễn Quốc T có hành vi lén lút trộm cắp 01 (một) điện thoại hiệu Samsung Galaxy A50 màu xanh đen, số IMEI 356646104951595 của chị Huỳnh Thị T có giá trị 3.374.800đồng (Ba triệu ba trăm bảy mươi bốn nghìn tám trăm đồng), khi tài sản này không có người trông coi. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự. Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang đối với bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo đã lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng do coi thường pháp luật, muốn có tiền chi tiêu cá nhân nên vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an và ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự tại địa phương.

[4] Xét về vai trò đồng phạm của các bị cáo: Các bị cáo thực hiện tội phạm với tính chất là đồng phạm giản đơn, các bị cáo không bàn bạc trước về cách thức trộm cắp như thế nào. Bị cáo D là người rủ rê và trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo T là người đứng ngoài cảnh giới. Do đó, mức hình phạt của bị cáo D phải cao hơn bị cáo T xét về vai trò đồng phạm.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo D có một tiền án chưa được xóa án tích và một bản án đã được xóa án tích, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội nên hành vi lần này cần áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì   vậy, hành vi của các bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc, cách li các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo cũng như phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[6] Xét về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn nên các được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình  sự. Riêng bị cáo T phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Xét về nhân thân của các bị cáo: Các bị cáo đều có nhân thân xấu, bị cáo Dũng có một tiền án, bị cáo Thắng từng thực hiện hành vi cố ý gây thương tích nhưng đã được đình chỉ bị can, đình chỉ điều tra vụ án. Do đó, hình phạt dành cho bị cáo Dũng cũng phải cao hơn bị cáo Thắng.

Tuy nhiên, khi căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của từng bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy nên tuyên các bị cáo ở mức vừa phải của khung hình phạt cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội và thể hiện được tính khoan hồng của pháp luật.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên cần tách ra giải quyết riêng trong một vụ án dân sự khi có đơn yêu cầu.

[9] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự Hội đồng xét xử xem xét như sau: Đối với 01 xe máy kiểu dáng Dream, biển kiểm soát  79N1-8780, số máy SD.078143, số khung PCG 00221078557 (đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong). Theo kết quả xác minh cho thấy chủ sở hữu của xe máy trên là ông Nguyễn Xuân T, sinh năm 1959, địa chỉ: 85 Trịnh P,  phường Tân L, Nha T. Tuy nhiên, hiện tại ông Thành không có mặt tại địa chỉ nêu  trên. Do đó. cần phải giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha  Trang tiếp tục xác minh, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Vật chứng được giao nhận theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/7/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang.

[10] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản  1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Phan Chí D; điểm h, i, s khoản 1  Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Quốc T.

[2] Xử phạt:

- Bị cáo Phan Chí D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù được tính từ ngày bắt đi thi hành án nhưng được trừ vào thời gian tạm giữ, tạm giam là từ ngày 20/01/2022 đến ngày 26/01/2022.

- Bị cáo Nguyễn Quốc T 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù được tính từ ngày 20/01/2022.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nên cần tách ra giải quyết riêng trong một vụ án dân sự khi có đơn yêu cầu.

[4] Về án phí:Áp dụng Luật phí và lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án và Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Giao 01 xe máy kiểu dáng Dream, biển kiểm soát 79N1-8780, số máy SD.078143, số khung PCG 00221078557 (đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng bên trong) cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang tiếp tục xác minh, điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Vật chứng được giao nhận theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/7/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nha Trang và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang.

[6] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 235/2022/HS-ST

Số hiệu:235/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về