Bản án về tội trộm cắp tài sản số 23/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BA VÌ – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 23/2024/HS-ST NGÀY 26/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 26 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ba Vì xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 09/2024/TLST-HS ngày 30 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2024/QĐXXST - HS ngày 15 tháng 02 năm 2024, đối với các bị cáo:

1. Trương Danh T (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1985, tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn Bắc, thị trấn T, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Trương Danh S, sinh năm 1959 và bà Nguyễn Thị Gi, sinh năm 1960; Vợ: Phạm Thị H, sinh năm 1994; Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền sự, tiền án: Không.

Nhân thân: Tại Bản án số 851/2017/HSPT, ngày 24/11/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 10 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Bị cáo chấp hành xong Bản án ngày 23/02/2019. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 11/11/2023 đến nay. Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

2. Đặng Tiến T1 (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1990, tại huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội; Nơi cư trú: Thôn V 3, xã V, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Đặng Tiến M, sinh năm 1963 và bà Phùng Thị Kh, sinh năm 1966; Vợ, con: Chưa có; Tiền sự: Không.

Tiền án: 01 tiền án, tại Bản án số 63/2019/HSST ngày 30/7/2019 của Tòa án nhân dân huyện Ba Vì, bị cáo bị xử phạt 05 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành xong Bản án ngày 18/01/2023.

Nhân thân: Năm 2013, bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm cai nghiện số 01 thành phố Hà Nội theo Quyết định số 1278/QĐ-UBND ngày 03/9/2015 của UBND huyện Ba Vì, Tp. Hà Nội. Chấp hành xong biện pháp xử lý hành chính ngày 15/8/2017. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 03/01/2024. Hiện đang tạm giam tại trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

* Bị hại:

- Anh Tạ Duy Kh1, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn Chu Quyến 3, xã Chu M, huyện Ba Vì, Tp. Hà Nội.

- Anh Nguyễn Khắc Th1, sinh năm 1980.

Địa chỉ: Thôn Đông, thị trấn T, huyện Ba Vì, Tp. Hà Nội.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Phùng Bá H1, sinh năm 1999.

Địa chỉ: Thôn V 2, xã V, huyện Ba Vì, Tp. Hà Nội.

* Người làm chứng:

- Ông Trương Danh S, sinh năm 1959.

Địa chỉ: Thôn Bắc, thị trấn T, huyện Ba Vì, Tp. Hà Nội.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng đều vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân nghiện ma túy, không có việc làm ổn định nên Trương Danh T và Đặng Tiến T1 đã rủ nhau đi ra khu vực chợ Quảng Oai, thị trấn T, huyện Ba Vì tìm kiếm tài sản rồi trộm cắp bán lấy tiền tiêu sài. Thực hiện ý định trên, khoảng 04 giờ S ngày 23/7/2023, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh sẫm (là xe của ông Trương Danh S - bố đẻ của T) chở T1 đi từ nhà T đi ra chợ Quảng Oai. Đến nơi, T dừng xe gần trước cửa hàng mua bán xe đạp biển hiệu "Hồng Nhung" địa chỉ thôn Hưng Đạo, thị trấn T, huyện Ba Vì. Tại đây, T1 bảo T đứng đợi, còn T1 xuống xe, đi bộ quanh khu vực chợ Quảng Oai tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Khoảng 20 phút sau, T1 không trộm cắp được tài sản gì nên quay lại chỗ T đang đứng và tiếp tục quan sát. Đến khoảng 4 giờ 40 phút cùng ngày, T và T1 phát hiện phía bên đường đối diện có 01 chiếc ô tô tải BKS: 29C- X chở hoa quả, dừng đỗ sát lề đường của anh Tạ Duy Kh1.

T và T1 quan sát thấy phía sau thùng xe tải có để 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi 11T, màu xanh hồng, ốp màu nâu của anh Kh1 nhưng anh Kh1 đứng bán hàng hoa quả, sau đó đi đẩy giao hàng cho khách vào bên trong chợ và không cầm theo điện thoại. T1 thấy sơ hở nên một mình đi bộ sang đường, đến gần phía sau thùng xe tải và lấy trộm chiếc điện thoại rồi vẫy tay để T điều khiển xe máy đón T1 đi về nhà T. Khi đến đường T thuộc ngõ thôn Bắc, thị trấn T, T1 tháo bỏ chiếc ốp màu nâu của chiếc điện thoại, vứt bỏ bên đường. Đến khoảng 8 giờ cùng ngày, T chở T1 đến cửa hàng điện thoại có biển hiệu "H1 Store" do anh Phùng Bá H1 làm chủ, địa chỉ thôn Hưng Đạo, thị trấn T, huyện Ba Vì để bán chiếc điện thoại. Đến nơi, T dừng xe máy đứng đợi ngoài cửa còn T1 đi vào bên trong và bán chiếc điện thoại trên cho H1 với giá 1.500.000đ. Số tiền trên T1 và T đã tiêu sài cá nhân hết.

Ngoài vụ trộm cắp nêu trên, Trương Danh T còn một mình thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản vào ngày 10/11/2023 tại thôn Đông, thị trấn T, huyện Ba Vì. Cụ thể: Khoảng 02 giờ S ngày 10/11/2023, T một mình đi bộ mang theo 01 chiếc kìm loại cầm tay từ nhà sang thôn Đông với mục đích xem nhà dân có sở hở sẽ đột nhập trộm cắp tài sản. Khi T đi qua Ban quản lý di tích đình T thì phát hiện bên trong sân có để 01 chiếc xe cải tiến bên trên có 01 nhà hơi cho trẻ em vui chơi đã xì hết hơi, quấn gọn. T biết các tài sản này là của anh Nguyễn Khắc Th1 là chú họ của T đã để nhờ tại đây từ trước. Sau đó, T dùng chiếc kìm cạy ổ khoá cổng cửa sắt của Ban quản lý di tích đình T để chui vào trong sân và trộm cắp các tài sản trên. T kéo xe cải tiến bên trên có nhà hơi về nhà T cất giấu và dùng các bao tải phủ lên để tránh bị người khác phát hiện. Sau đó đã bị CQĐT thu giữ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 92/KL-ĐGTS, ngày 14/8/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ba Vì, kết luận: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi 11T, màu xanh, hồng, ốp màu nâu có giá:

5.000.000đ (Năm triệu đồng).” Tại Bản Kết luận định giá tài sản số: 133/KL-ĐGTS, ngày 06/12/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ba Vì, kết luận: “01 chiếc xe cải tiến bằng sắt loại 02 bánh, kích thước (2,75x1x0,7)m có giá: 400.000đ;

01 nhà hơi làm bằng chất liệu bạt PVC, kích thước là (4x6)m có giá:

1.900.000đ. Tổng cộng giá trị tài sản là 2.300.000đ (Hai triệu ba trăm nghìn đồng).” Ngày 28/8/2023, Cơ quan CSĐT đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 393 để trưng cầu phòng PC09- CATP Hà Nội giám định đối với 02 đoạn video đã thu giữ được trong quá trình điều tra. Tại bản kết luận số: 7483/KL- KTHS, ngày 13/11/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội Kết luận: “Không có dấu vết cắt ghép chỉnh sửa trong 02 đoạn video gửi giám định.Về vật chứng:

- Chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi 11T, màu xanh hồng là tài sản hợp pháp của anh Tạ Duy Kh1; Chiếc xe cải tiến bằng sắt loại 02 bánh, kích thước (2,75x1x0,7)m; một nhà hơi làm bằng chất liệu bạt PVC, kích thước là (4x6)m là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Khắc Th1. Cơ quan CSĐT đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả lại các tài sản trên cho anh Tạ Duy Kh1 và anh Nguyễn Khắc Th1 theo quy định.

- Đối với 01 áo khoác gió màu tím kích thước (160x90)cm, trước ngực áo có in dòng chữ "UPF50+" ; 01 áo mưa màu đỏ dạng chùm có kích thước (140x117)cm, mặt sau áo mưa có in dòng chữ "Honda Xuân Toàn; 01 áo sơ mi loại kẻ caro có kích thước (145x74)cm, màu đen trắng, bên trong cổ áo có in nhãn hiệu "An phuoc"; 01 kìm loại cầm tay, có kích thước (20x5)cm, có tay cầm bọc nhựa màu xanh dương và 01 ổ khóa màu đen (đã gỉ sét, bị mẻ ở đầu khóa), nhãn hiệu Việt Tiệp là trang phục, công cụ và T sản trong vụ trộm cắp ngày 10/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì đã ra Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Ba Vì để phục vụ quá trình giải quyết vụ án.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh sẫm mà Trương Danh T điều khiển chở Đặng Tiến T1 để đi trộm cắp tài sản ngày 23/7/2023, CQĐT đã tiến hành xác M nguồn gốc. Kết quả: Chiếc xe mô tô là của ông Trương Danh S, bố đẻ của T. Ngày 23/7/2023, T đã tự ý lấy chiếc xe mô tô làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, ông S không biết. Khoảng tháng 10/2023, T tự ý bán chiếc xe mô tô cho một người thu mua sắt vụn. T không nhớ được đặc điểm, tên tuổi, nơi ở của người này. Vì vậy, CQĐT không có căn cứ để xác định thu giữ chiếc xe mô tô trên.

- Đối với chiếc ốp điện thoại màu nâu của anh Tạ Duy Kh1 bị Đặng Tiến T1 ném bỏ ngày 23/7/2023 trên đoạn đường T, ngõ thôn Bắc, thị trấn T, huyện Ba Vì, CQĐT đã tiến hành truy tìm nhưng không thấy.

Về dân sự: Anh Tạ Duy Kh1, anh Nguyễn Khắc Th1, anh Phùng Bá H1 không có yêu cầu đề nghị gì về bồi thường dân sự.

Tại Bản Cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 26/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì đã truy tố các bị cáo Trương Danh T, Đặng Tiến T1 về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của BLHS năm 2015.

* Tại phiên tòa: Các bị cáo Trương Danh T, Đặng Tiến T1 đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì đã truy tố, tỏ thái độ ăn năn, hối cải. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì tham gia phiên toà, phát biểu luận tội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Trương Danh T, Đặng Tiến T1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Trương Danh T từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/11/2023.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Đặng Tiến T1 từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/01/2024.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy: 01 áo khoác gió màu tím kích thước (160x90)cm, trước ngực áo có in dòng chữ "UPF50+" ; 01 áo mưa màu đỏ dạng chùm có kích thước (140x117)cm, mặt sau áo mưa có in dòng chữ "Honda Xuân Toàn; 01 áo sơ mi loại kẻ caro có kích thước (145x74)cm, màu đen trắng, bên trong cổ áo có in nhãn hiệu "An phuoc"; 01 kìm kim loại cầm tay, có kích thước (20x5)cm, có tay cầm bọc nhựa màu xanh dương và 01 ổ khóa màu đen (đã gỉ sét, bị mẻ ở đầu khóa), nhãn hiệu Việt Tiệp.

- Về trách nhiệm dân sự: Anh Tạ Duy Kh1, anh Nguyễn Khắc Th1 và anh Phùng Bá H1 không có yêu cầu đề nghị gì về bồi thường dân sự nên không đề nghị HĐXX xem xét.

- Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Ba Vì, Điều tra Viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo không có ý kiến hay kH1 nại gì về quyết định, hành vi của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung vụ án: Chỉ vì mục đích muốn có tiền tiêu sài cá nhân, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý, trông coi tài sản của bị hại, khoảng 4 giờ 40 phút ngày 23/7/2023, tại khu vực chợ Quảng Oai, thị trấn T, huyện Ba Vì, Trương Danh T, Đặng Tiến T1 đã lén lút trộm cắp 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi 11T, màu xanh hồng của anh Tạ Duy Kh1 có giá trị 5.000.000 đồng. Ngoài ra, khoảng 02 giờ S ngày 10/11/2023, Trương Danh T còn một mình thực hiện hành vi trộm cắp tài sản là 01 chiếc xe cải tiến bằng sắt và 01 nhà hơi làm bằng chất liệu bạt PVC của anh Nguyễn Khắc Th1 có giá trị 2.300.0000 đồng. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản và các chứng cứ, T liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận hành vi của Trương Danh T, Đặng Tiến T1 đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội truy tố các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Do vậy cần phải xử phạt các bị cáo với mức án nghiêm khắc tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã gây ra để giáo dục riêng, phòng ngừa chung.

[4], Xét vị trí, vai trò của các bị cáo: Bị cáo T đồng phạm với bị cáo T1 thực hiện một vụ trộm cắp và một mình thực hiện một vụ trộm cắp khác nên hành vi của bị cáo T có tính chất và mức độ nguy hiểm hơn bị cáo T1. Vì vậy, hình phạt đối với bị cáo T cần phải nặng hơn bị cáo T1 để đảm bảo tính công bằng khi quyết định hình phạt.

[5]. Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:

- Về nhân thân: Các bị cáo đều là người có nhân thân xấu, đã bị Tòa án xử phạt tù nhưng các bị cáo không coi đó là bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân, nay lại tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trương Danh T đã hai lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với giá trị đều trên 2.000.000 đồng nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo Đặng Tiến T1 phạm tội khi chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “ Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo Trương Danh T có bố là người có công với cách mạng nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về hình phạt: Các bị cáo phạm tội thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần áp dụng Điều 38 Bộ luật hình sự, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Xét thấy, cần tiếp tục giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều là những người nghiện ma túy, không có công ăn việc làm, thu nhập ổn định, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, do vậy HĐXX miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Anh Tạ Duy Kh1, anh Nguyễn Khắc Th1 và anh Phùng Bá H1 không yêu cầu đề nghị gì về dân sự nên HĐXX không xem xét. Đối với số tiền 1.500.000đ là tiền các bị cáo thu lợi bất chính sau khi bán chiếc điện thoại cho anh Phùng Bá H1, do anh H1 không yêu cầu các bị cáo phải bồi thường dân sự nên cần truy thu của các bị cáo số tiền này theo quy định tại Điều 47 BLHS. Tại phiên toà, các bị cáo đều tự nguyện chịu một nửa số tiền trên nên mỗi bị cáo phải bị truy thu số tiền là 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

[8]. Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 01 áo khoác gió màu tím kích thước (160x90)cm, trước ngực áo có in dòng chữ "UPF50+" ; 01 áo mưa màu đỏ dạng chùm có kích thước (140x117)cm, mặt sau áo mưa có in dòng chữ "Honda Xuân Toàn; 01 áo sơ mi loại kẻ caro có kích thước (145x74)cm, màu đen trắng, bên trong cổ áo có in nhãn hiệu "An phuoc"; 01 kìm kim loại cầm tay, có kích thước (20x5)cm, có tay cầm bọc nhựa màu xanh dương và 01 ổ khóa màu đen (đã gỉ sét, bị mẻ ở đầu khóa), nhãn hiệu Việt Tiệp là trang phục, công cụ và tài sản trong vụ trộm cắp ngày 10/11/2023, không còn giá trị sử dụng nên áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh sẫm mà Trương Danh T điều khiển chở Đặng Tiến T1 để đi trộm cắp tài sản ngày 23/07/2023. Kết quả điều tra xác định chiếc xe mô tô là của ông Trương Danh S là bố đẻ của T, ngày 23/7/2023, T đã tự ý lấy chiếc xe mô tô nên ông S không biết. Khoảng tháng 10/2023, T tự ý bán chiếc xe mô tô cho một người thu mua sắt vụn. T không nhớ được đặc điểm, tên tuổi, nơi ở của người này. CQĐT không có căn cứ để xác định thu giữ chiếc xe mô tô trên nên HĐXX không xem xét.

[8]. Các vấn đề khác: Đối với anh Phùng Bá H1 là người mua bán chiếc điện thoại di động Xiaomi 11T, màu xanh hồng do T và T1 trộm cắp được ngày 23/7/2023. Quá trình điều tra xác định: H1 không biết chiếc điện thoại trên là tài sản do T và T1 phạm tội mà có, H1 đã tự nguyện nộp lại cho CQĐT để điều tra làm rõ nên CQĐT không xử lý đối với anh H1 là có căn cứ nên HĐXX không xét.

[9]. Về án phí: Bị cáo Trương Danh T, Đặng Tiến T1 phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo Trương Danh T, Đặng Tiến T1 phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Về hình phạt:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Trương Danh T 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/11/2023.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Đặng Tiến T1 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/01/2024.

+ Tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo thi hành án.

+ Miễn hình phat bổ sung cho các bị cáo.

+ Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền thu lợi bất chính đối với bị cáo Trương Danh T và bị cáo Đặng Tiến T1 mỗi bị cáo phải nộp số tiền 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 áo khoác gió màu tím kích thước (160x90)cm, trước ngực áo có in dòng chữ "UPF50+"; 01 áo mưa màu đỏ dạng chùm có kích thước (140x117)cm, mặt sau áo mưa có in dòng chữ "Honda Xuân Toàn; 01 áo sơ mi loại kẻ caro có kích thước (145x74)cm, màu đen trắng, bên trong cổ áo có in nhãn hiệu "An phuoc"; 01 kìm kim loại cầm tay, có kích thước (20x5)cm, có tay cầm bọc nhựa màu xanh dương và 01 ổ khóa màu đen (đã gỉ sét, bị mẻ ở đầu khóa), nhãn hiệu Việt Tiệp (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/02/2024 Gi Công an huyện Ba Vì và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ba Vì).

- Về án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc các bị cáo Trương Danh T, Đặng Tiến T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Các bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Các bị hại được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo phần Bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 23/2024/HS-ST

Số hiệu:23/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ba Vì - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về