Bản án về tội trộm cắp tài sản số 231/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 231/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 203/2022/TLST-HS ngày 09 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 258/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Chế Anh C, sinh năm 1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Thơ hàn; Trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Chế Văn M (chết) và bà Phạm Thị L, sinh năm 1957; Vợ Lê Thị Mỹ H, sinh năm 1984, có 01 con sinh năm 2003; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 14/6/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng; chấp hành xong ngày 08/4/2021; Nhân thân: Ngày 25/02/2004, bị Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số: 19/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/10/2004, việc đóng án phí hình sự sơ thẩm Cơ quan Thi hành án dân sự Quận 7 không thụ lý; Ngày 19/9/2007, bị Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở chữa bệnh do có hành vi sử dụng chất ma túy (Quyết định số 7770/QĐ-UBND). Ngày 19/7/2010, bị Ủy ban nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở chữa bệnh do có hành vi sử dụng chất ma túy (Quyết định số 31/QĐ-UBD). Ngày 30/8/2013, bị Ủy ban nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào cơ sở chữa bệnh do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy (Quyết định số 33/QĐ-UBND). Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2022 và có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Trà Văn H, sinh năm 1972 (vắng mặt) Địa chỉ: thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh - Người làm chứng:

1. Anh Trà Minh L, sinh năm 1999 (vắng mặt) Địa chỉ: thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh

3. Anh Mai Thành H, sinh năm 1956 (vắng mặt) Địa chỉ: thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ 00 phút ngày 11/10/2021, Chế Anh C đang ở nhà tại số huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh thì có người bạn tên H (chưa rõ lai lịch) đến rủ Công đi qua thành phố Thủ Đức chơi, Công đồng ý. H điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave (không rõ biển số) chở C đi lòng vòng qua nhiều tuyến đường. Trên đường đi, H hỏi C có tiền không thì C trả lời không có nên giữa C và H xảy ra mâu thuẫn. Khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày, khi cả 2 đến đường Trần Trọng Khiêm, khu phố Bến Đò, phường Long Bình, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh thì H dừng xe lại, C và H tiếp tục cãi nhau nên H điều khiển xe mô tô chạy đi, bỏ C ở lại. C đi bộ trên đường Trần Trọng Khiêm thì nhìn thấy 01 xe mô tô hiệu Honda Wave, màu đỏ đen, biển số 55X1-X có cắm sẵn chìa khóa của anh Trà Văn H đang dựng trên vỉa hè cạnh bờ hồ, đường Trần Trọng Khiêm, khu phố Bến Đò, phường Long Bình, thành phố Thủ Đức không có ai trông coi. Lúc này, anh H đang cắt rau muống dưới hồ, nên C nảy sinh ý định lén lút lấy trộm xe mô tô của anh H. C đi lại vị trí để xe của anh H, ngồi lên xe dùng tay phải bật chìa khóa xe nổ máy tẩu thoát, nghe tiếng nổ máy xe, anh H nhìn lên thì phát hiện C đã điều khiển xe mô tô tẩu thoát về hướng đường Mạc Hiển Tích, khu phố Bến Đò, phường Long Bình, thành phố Thủ Đức. Do không biết đường, nên C điều khiển xe mô tô vừa trộm được đi vào Hẻm 16 đường Mạc Hiển Tích, rồi rẽ vào đường đất gặp hẻm cụt không có đường đi, nên bỏ xe vừa trộm cắp lại bên bờ ruộng cuối đường, và cởi áo khoác màu đen vứt bỏ lại rồi đi bộ ra hướng Ủy ban nhân dân phường Long Bình. Khi anh H phát hiện C lấy trộm xe mô tô thì đi lên bờ hồ ngồi. Lúc này có anh Trà Minh L là cháu của anh H đi ngang qua hỏi anh H có chuyện gì mà ngồi đó, anh H trả lời vừa bị mất trộm xe và nhờ L đi tìm xe giúp. Anh L điều khiển xe mô tô chạy đi tìm xe cho anh H, trên đường đi, anh L gặp anh Nguyễn Văn C là anh họ của L, nên L rủ anh C cùng đi tìm xe cho anh H. Khi cả hai điều khiển xe đến hẻm cụt thì phát hiện xe mô tô của anh H đang ở nằm bên bờ ruộng cuối đường, gần xe có một áo khoác màu đen, anh L cùng anh C quay xe ra phát hiện C đang đi bộ trước Ủy ban nhân dân phường Long Bình nghi ngờ là đối tượng trộm cắp xe nên đã giữ Công lại và bàn giao C cùng vật chứng vụ án cho C an phường Long Bình giải quyết theo thẩm quyền.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số: 334-KV2-KLĐG-HĐĐGTS ngày 14/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Thủ Đức, kết luận: Xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 55X1-X, số máy E-1422762, số khung: Y-221842 có giá trị 7.300.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Chế Anh C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.

Vật chứng vụ án:

01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 55X1-X, màu đỏ đen, số máy E- 1422762, số khung: Y-221842, kết quả xác minh xe do anh Huỳnh Văn Q, hộ khẩu thường trú số phường Long Bình, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ sở hữu, anh Q bán xe trên cho anh Trà Văn H với giá 14.000.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại xe cho anh H.

01 áo khoác màu đen thu giữ tại hiện trường của Chế Anh C, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã nhập kho vật chứng theo Quyết định số 29/LNK-CQĐT ngày 08/11/2021.

Về dân sự: Bị hại anh Trà Văn H đã nhận lại tài sản, nên không yêu cầu bồi thường.

Cáo trạng số: 198/CT-VKSTPTĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố Chế Anh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Chế Anh C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đã truy tố, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức giữ nguyên Quyết định truy tố đối với Chế Anh C về tội “Trộm cắp tài sản”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Chế Anh C từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù.

Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 áo khoác màu đen thu giữ tại hiện trường của Chế Anh Công.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thấy được hành vi của mình là sai trái, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Chế Anh C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo là khách quan, phù hợp với Biên bản ghi lời khai của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra; Bản tự khai của bị cáo; Lời khai của bị hại; Người làm chứng; Tang vật thu giữ; Kết luận định giá tài sản và các tang vật, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 11/10/2021, tại vỉa hè cạnh bờ hồ, đường Trần Trọng Khiêm, khu phố Bến Đò, phường Long Bình, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Chế Anh C đã có hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 55X1-X, số máy E-1422762, số khung: Y-221842 có giá trị 7.300.000 đồng của anh Trà Văn H, thì bị bắt giữ. Hành vi của Chế Anh C đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Lời khai của bị cáo đã thống nhất với tội danh và điều luật mà đại diện Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội đối với bị cáo. Như vậy, nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đối với bị cáo Chế Anh C là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của mình gây ra. Bị cáo có 01 tiền sự và có nhân thân xấu, tài sản chiếm đoạt trị giá 7.300.000 đồng. Vì vậy, cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo khỏi xã hội trong một thời gian nhất định mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử cũng xét trong suốt quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[5] Vật chứng vụ án:

[5.1] 01 xe mô tô hiệu Honda Wave biển số 55X1-X, màu đỏ đen, số máy E-1422762, số khung: Y-221842, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức đã trả lại xe mô tô trên cho anh Trà Văn H là đúng quy định pháp luật;

[5.2] 01 áo khoác màu đen thu giữ tại hiện trường. Đây là trang phục của bị cáo, bị cáo không đồng ý nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về dân sự: Bị hại anh Trà Văn H đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường nào khác nên không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo Chế Anh C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuyên bố bị cáo Chế Anh C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Chế Anh C 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/4/2022.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 áo khoác màu đen.

(theo Biên bản giao nhận vật chứng số: 70/22L ngày 06/6/2022 bên giao Công an thành phố Thủ Đức, bên nhận Chị cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức).

3. Căn cứ vào Điều 135; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Chế Anh C phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 231/2022/HS-ST

Số hiệu:231/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về