Bản án về tội trộm cắp tài sản số 229/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 229/2021/HS-ST NGÀY 02/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02/10/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận N, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 235/2021/TLST-HS ngày 30/ 8/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 248/2021/QĐXXST-HS ngày 22/9/2021 đối với bị cáo :

Lê Thị B, sinh năm 1968; Hộ khẩu thường trú: Số 4 ngách 32 ngõ X, phường N, quận Đ, thành phố H. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Văn hoá 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Lê Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1940; Có chồng: Nguyễn Bảo L, sinh năm 1978 và có 01 con, sinh năm 2007. Tiền án, tiền sự theo danh chỉ bản số 000000 197 lập ngày 02/03 /2021 tại Công an quận N, H và lý lịch cá nhân bị cáo B có Bản án số 192/2000/HSST ngày 19/6/2000, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, H xử phạt 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. ra trại ngày 18/7/2003. Xác minh thi hành án, xác định B chưa nộp 20.000.000 đồng tiền phạt và 50.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm nên chưa được xóa án tích. Nhân thân bị cáo còn có các tiền án, tiền sự đã xóa: Bản án số 182/HSST ngày 15/9/1989, Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm tuyên phạt 10 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản công dân (trị giá tài sản 239.750 đồng); Bản án số 474/2012/HSST ngày 26/10/2012, Tòa án nhân dân thành phố H tuyên phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (trị giá tài sản 3.000.000 đồng), nộp án phí HSST ngày 03/01/2013, ra trại ngày 16/5/2013; Bản án số 456/2016/HSST ngày 15/12/2016, Tòa án nhân dân thành phố H tuyên phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, tính từ ngày 5/8/2016 (trị giá tài sản 3.500.000 đồng, nộp án phí ngày 6/03/2017, ra trại ngày 5/11/2017); Năm 2010, Công an phường H, H xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản; Năm 2011, Công an phường H, H xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản; Năm 2019, Công an quận H xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Đánh bạc. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/02/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1- Công an thành phố H, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Anh Jeong Dong H (SN: 1980, Quốc tịch: Hàn Quốc; Nơi ở: P1209- CT8, KĐT M - S, M, N, H, vắng mặt;

Người phiên dịch: Nguyễn Hồng Mỹ D, trú tại Khu 12, thị trấn T, huyện T, tỉnh P, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 20/2/2021, Lê Thị B gặp Đặng Đình C (SN: 1977, HKTT: xã C, huyện T, huyện N) là bạn quen biết từ trước tại đường T, phường M, N, H, C rủ đi trộm cắp tài sản, B đồng ý. C đèo B bằng xe máy Honda Wave màu cam vàng BKS: 99G1-xxxxx của C đi lang thang trên đường xem có ai sơ hở thì trộm cắp tài sản. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 21/2/2021, khi đến khu vực cổng trường tiểu học M, đường T, M, N phát hiện anh Jeong Dong H (SN: 1980, Quốc tịch: Hàn Quốc; Nơi ở: P1209- CT8, KĐT M - S, phường M, N, H) đi bộ trên vỉa hè cùng anh Yang Tea U (SN: 1979, Quốc tịch: Hàn Quốc; Nơi ở: chung cư G, đường N, phường M, N, H) và anh Yoo Hae T (SN: 1979, Quốc tịch: Hàn Quốc), thấy cả 3 người có biểu hiện say rượu nên C bảo B xuống xe tiếp cận để trộm cắp tài sản, còn C đỗ xe chờ ở vỉa hè. B tiếp cận anh Jeong Dong H nói chuyện trêu đùa, dùng tay phải cầm tay anh Jeong Dong H, tay trái rút chiếc điện thoại Samsung Galaxy S20 Ultra màu đen, lắp sim điện thoại thuê bao số 0914940xxx trong túi quần bên phải của anh Jeong Dong H sau đó nhanh chóng đi ra ngồi lên xe máy đưa điện thoại cho C cả hai đi về cửa hàng C trên đường Trần Văn L, phườn M, N, H. Trên đường đi, C tháo vứt bỏ sim điện thoại (không xác định được địa điểm) nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Anh Jeong Dong H kiểm tra túi quần phát hiện mất điện thoại đã cùng anh Yang Tea U, anh Yoo Hae T thuê xe taxi (không rõ hãng xe) đi tìm. Phát hiện thấy B đang đi vào trong cửa hàng C trên đường Trần Văn L cả ba anh giữ B để kiểm tra nhưng không tìm thấy điện thoại. Ngay lúc đó Anh Yang Tae U thấy C (đầu đội mũ bảo hiểm, đeo khẩu trang) đi sang đường đối diện, đứng gần đầu 01 xe ô tô, dùng tay ném điện thoại, dùng chân đá vào gầm ô tô nên hô hoán mọi người bắt giữ C nhưng C chống trả chạy thoát để lại xe máy tại hiện trường. Anh Jeong Dong H kiểm tra chiếc điện thoại C ném xuống gầm xe ô tô đúng là điện thoại của mình nên đã trình báo Công an phường M để đưa Lê Thị B cùng vật chứng về trụ sở giải quyết.

Vật chứng thu giữ: 01 điện thoại Samsung Galaxy S20 Ultra màu đen; số Imei: 354084114611235; 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu cam BKS 99G1-xxxxx; số khung: RLHHC 1257FY382613; số máy: HC12E7382666 và 01 điện thoại di động AQUOS màu trắng bạc, lắp sim: 0911 826 810 của B.

Bản kết luận định giá tài sản số 93 ngày 08 tháng 03 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận N, kết luận: 01 điện thoại Samsung Galaxy S20 Ultra màu đen trị giá 15.000.000 đồng, 01 sim điện thoại thuê bao số 0914940xxx trị giá 25.000 đồng.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Thị B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và khai B quen biết C khi đi cải tạo cùng C, C có tên đầy đủ là Đặng Đình C (SN 1977, HKTT: xã C, huyện T, huyện N) và có số thuê bao điện thoại 0946653333.

Cơ quan điều tra Công an quận N đã tiến hành điều tra xác minh đối tượng C (người đàn ông mặc áo Grab đã cùng Lê Thị B thực hiện hành vi trộm cắp tài sản theo B khai là Đặng Đình C), nhưng C vắng mặt tại địa phương nên đã ra Quyết định tách vụ án hình sự và vật chứng là chiếc xe máy Honda Wave màu cam BKS: 99G1-xxxxx liên quan đến vụ án và đối tượng C để tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý.

Bản cáo trạng số 230/CT-VKS ngày 23/8/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận N đã truy tố bị cáo Lê Thị B về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận N trong phần luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng số 230/CT-VKS ngày 23/8/2021 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lê Thị B từ 15 đến 18 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, Bản kết luận định giá tài sản, biên bản trả lại tài sản và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được đã có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 0 giờ 30’ ngày 21/02/2021, tại khu vực trước cổng Trường tiểu học M, đường T, phường M, quận N, thành phố H, Lê Thị B cùng với nam thanh niên đi xe máy Honda Wave BKS: 99G1-xxxxx (B khai là Đặng Đình C, hiện Cơ quan điều tra đã tách vụ án liên quan đến hành vi của C để tiếp tục làm rõ) đã có hành vi trộm cắp chiếc điện thoại Samsung Galaxy S20 Ultra màu đen trị giá 15.000.000 đồng và 01 sim điện thoại thuê bao số 0914940xxx trị giá 25.000 đồng của anh Jeong Dong H. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 15.025.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Lê Thị B đã phạm tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự. Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận N truy tố là có căn cứ pháp luật, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo B là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội.

Bị cáo B là đối tượng có nhân thân xấu đã nhiều lần bị xử phạt tù, xử phạt hành chính về các hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, trộm cắp tài sản, đánh bạc nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để làm ăn lương thiện mà tiếp tục đi trộm cắp tài sản lấy tiền ăn tiêu chứng tỏ bị cáo rất coi thường pháp luật nên đối với bị cáo phải xử lý nghiêm, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Bị cáo B còn Bản án số 192/2000/HSST ngày 19/6/2000, Tòa án nhân dân quận Hai Bà Trưng, H phạt 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy chưa được xóa án tích nên hành vi phạm tội lần này bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Khi lượng hình phạt cũng xét cáo đã thành khẩn khai báo để cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định, kinh tế khó khăn vì vậy Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Ngày 19/5/2021, Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng và tiến hành trao trả chiếc điện thoại Samsung Galaxy S20 Ultra màu đen cho anh Jeong Dong H. Anh Jeong Dong H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường về dân sự nên Tòa án không đặt ra xem xét.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thị B phạm tội Trộm cắp tài sản.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, phạt:

Lê Thị B 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/02/2021.

Bị cáo Lê Thị B phải nộp 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 229/2021/HS-ST

Số hiệu:229/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về