Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG, THÁP CHÀM TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 22/2024/HS-ST NGÀY 06/02/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 06 tháng 02 năm 2024 tại Tòa án nhân dân thành phố P - T, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 226/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2024/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Phạm Xuân H (Chịt), sinh năm 1990 tại N; Nơi thường trú: Khu phố 01, phường TS, thành phố P - T, tỉnh N; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 4/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H và bà Cao Thị Như Th.

Tiền án:

- Ngày 01/7/2021, Phạm Xuân H bị Tòa án nhân dân thành phố P - T, tỉnh N xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 28/01/2022 chấp hành xong hình phạt tù.

Tiền sự:

- Ngày 08/8/2022, Phạm Xuân H bị Công an phường TS, thành phố P - T, tỉnh N xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” với số tiền 1.500.000 đồng (Chưa nộp phạt).

Nhân thân:

- Ngày 21/8/2012, Phạm Xuân H bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường TS, thành phố P - T, tỉnh N ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã với thời hạn 06 tháng về hành vi “Trộm cắp tài sản”.

- Ngày 26/7/2013, Phạm Xuân H bị Tòa án nhân dân thành phố P - T, tỉnh N xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”; ngày 24/4/2015 chấp hành xong hình phạt tù.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 16/10/2023, tạm giam ngày 22/10/2023; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố P - T, tỉnh N (Có mặt tại phiên tòa).

Bị hại:

- Chị Đỗ Thị L - Sinh năm 1990 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi thường trú: Khu phố 6, phường VH, thành phố P - T, tỉnh N.

Nơi ở hiện tại: Khu phố 5, phường PH, thành phố P - T, tỉnh N.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Anh Đồng Thép Hoàng A - Sinh năm 1992 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi thường trú: Khu phố 6, phường VH, thành phố P - T, tỉnh N, tỉnh N.

Nơi ở hiện tại: Khu phố 5, phường PH, thành phố P - T, tỉnh N.

- Anh Dương Tấn T - Sinh năm 1992 (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Nơi thường trú và hiện trú tại: Khu phố 7, phường TT, thành phố P - T, tỉnh N.

Người làm chứng:

- Anh Trần Đình Ngọc C - Sinh năm 1982 (Vắng mặt).

Nơi thường trú: Khu phố 3, phường ĐL, thành phố P - T, tỉnh N.

Nơi ở hiện tại: Khu phố 8, phường TT, thành phố P - T, tỉnh N.

- Anh Mai Kim Y - Sinh năm 1987 (Vắng mặt).

Nơi thường trú và hiện trú tại: Khu phố 8, phường TT, thành phố P - T, tỉnh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ, ngày 03/10/2023, Phạm Xuân H đi bộ đi câu cá, khi đi ngang qua nhà chị Đỗ Thị L - sinh năm 1990, trú tại: Khu phố 5, phường PH, thành phố P - T, tỉnh N thì nhìn thấy 01 xe mô tô, hiệu Wave Alpha, màu xanh đen, biển số 36P1-xxxx, cắm sẵn chìa khóa trên xe đang dựng phía trước sân, không có người trông coi nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H đi đến dùng hai tay nhấc cửa cổng ra khỏi bản lề, đi tới dắt xe mô tô ra khỏi sân nhà chị L nổ máy, điều khiển xe mô tô của chị L chạy đến phía sau siêu thị Coopmart H thì dừng lại dùng cây kìm (mang theo cắt lưỡi câu) tháo biển số xe rồi điều khiển xe mô tô chạy về nhà ở khu phố 01, phường TS, thành phố P - T, tỉnh N cất giấu biển số 36P1-xxxx. H tiếp tục điều khiển xe mô tô vừa trộm cắp được đến nhà chị Nguyễn Thị Kiều - sinh năm 1993, trú tại: Khu phố 03, phường Mỹ Đông, thành phố P - T, tỉnh N là bạn gái của H để ngủ. Hai ngày sau, H điều khiển xe mô tô trộm cắp được của chị L đến nhà anh Trần Đình Ngọc C - Sinh năm 1982, hiện trú tại: Khu phố 8, phường TT, thành phố P - T, tỉnh N. Tại đây, H gặp anh Chương và anh Mai Kim Y - Sinh năm 1987, trú tại: Khu phố 8, phường TT, thành phố P - T, tỉnh N; H hỏi bán chiếc xe mô tô trên nhưng anh Chương và anh Yên không mua. Cùng lúc này có anh Dương Tấn T - Sinh năm 1992; trú tại: Khu phố 7, phường TT, thành phố P - T, tỉnh N là bạn của anh Yên đến chơi và biết được H đang muốn bán xe mô tô. Do anh Tiến đang tìm mua 01 xe mô tô để làm phương tiện đi bắt ốc nên đã hỏi H mua chiếc xe mô tô trên. Quá trình thỏa thuận mua bán xe mô tô, anh Tiến có hỏi H về nguồn gốc chiếc xe thì H nói là xe của H nhưng quá trình sử dụng đã bị mất giấy tờ và biển số nên H bán rẻ với giá 2.200.000 đồng, anh Tiến đồng ý mua xe mô tô trên. Số tiền bán xe, H đã tiêu xài cá nhân hết. Tại Cơ quan điều tra, Phạm Xuân H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 93/KL-HĐĐGTS ngày 18/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố P - T, kết luận:

- 01 chiếc xe mô tô, hiệu Wave Alpha, màu xanh đen, biển số 36P1-xxxx có giá trị là 6.000.000 đồng.

* Vật chứng của vụ án:

- Cơ quan điều tra đã trả lại 01 chiếc xe mô tô, hiệu Wave Alpha, màu xanh đen, biển số 36P1-xxxx cho chị Đỗ Thị L. Chị L đã nhận lại xe, không có yêu cầu gì về dân sự.

- 01 cây kìm Phạm Xuân H dùng để tháo biển số xe đã bị mất nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

* Đối với anh Dương Tấn T đã mua xe của Phạm Xuân H nhưng không biết đây là tài sản do H trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý là có căn cứ. Quá trình điều tra, anh Tiến yêu cầu H bồi thường số tiền 2.200.000 đồng, H đồng ý nhưng chưa bồi thường cho anh T.

Cáo trạng số 14/CT-VKSPRTC ngày 26/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P - T, tỉnh N đã truy tố bị cáo Phạm Xuân H (Chịt) về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận diễn biến sự việc xảy ra như nội dung cáo trạng đã truy tố. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố P - T, tỉnh N. Bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 2.200.000 đồng cho anh Dương Tấn T và đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận về việc bồi thường này.

- Bị hại là chị Đỗ Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt và trình bày: Vẫn giữ nguyên những lời khai đã khai trước đây tại cơ quan Công an; thống nhất với kết quả định giá tài sản mà Hội đồng định giá tài sản đã định giá đối với tài sản bị chiếm đoạt. Đã nhận lại tài sản là chiếc xe mô tô, hiệu Wave Alpha, màu xanh đen, biển số 36P1-xxxx nên không có yêu cầu gì về dân sự; đề nghị xử phạt bị cáo mức hình phạt theo quy định của pháp luật.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Dương Tấn T có đơn xin xét xử vắng mặt và trình bày: Vẫn giữ nguyên những lời khai đã khai trước đây tại cơ quan Công an; yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 2.200.000 đồng; nếu bị cáo đồng ý yêu cầu trên thì đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận về việc bồi thường này.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Đồng Thép Hoàng A có đơn xin xét xử vắng mặt và trình bày: Vẫn giữ nguyên những lời khai đã khai trước đây tại cơ quan Công an; thống nhất với kết quả định giá tài sản mà Hội đồng định giá tài sản định giá đối với tài sản đã bị chiếm đoạt. Chiếc xe mô tô, hiệu Wave Alpha, màu xanh đen, biển số 36P1-xxxx vợ của anh là chị Đỗ Thị L đã nhận lại nên không có yêu cầu gì về dân sự.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P - T, tỉnh N vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tuyên bố: Bị cáo Phạm Xuân H (Chịt) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

+ Xử phạt bị cáo Phạm Xuân H (Chịt) mức án từ 15 (Mười lăm) tháng tù đến 18 (Mười tám) tháng tù.

+ Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo Phạm Xuân H và anh Dương Tấn T về việc bị cáo bồi thường cho anh Dương Tấn T số tiền 2.200.000 đồng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Hành vi của bị cáo là sai, vi phạm pháp luật hình sự, rất ăn năn hối cải; xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố P - T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P - T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Bị hại là chị Đỗ Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Đồng Thép Hoàng A và anh Dương Tấn T có đơn xin xét xử vắng mặt; người làm chứng vắng mặt; không có ai đề nghị hoãn phiên tòa. Căn cứ các Điều 292, 293 của Bộ luật tố tụng hình sự; Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; đủ cơ sở xác định: Khoảng 01 giờ, ngày 03/10/2023 tại nhà của chị Đỗ Thị L thuộc khu phố 5, phường PH, thành phố P - T, tỉnh N; Phạm Xuân H đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe mô tô, hiệu Wave Alpha, màu xanh đen, biển số 36P1-xxxx của chị L có giá trị 6.000.000 đồng. Vì vậy Cáo trạng số 14/CT-VKSPRTC ngày 26/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P - T truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[2.2] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự; đã nhiều lần bị Tòa án nhân dân có thẩm quyền xử phạt hình phạt tù; đã nhiều lần bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân. Ngược lại vì tham lam, lười lao động nên đã bất chấp, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, an toàn xã hội nên phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.

[2.3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Ngày 01/7/2021, Phạm Xuân H bị Tòa án nhân dân thành phố P - T, tỉnh N xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[2.4] Xét tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo; thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện học tập, cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

[3.1] Bị hại là chị Đỗ Thị L đã nhận lại 01 chiếc xe mô tô, hiệu Wave Alpha, màu xanh đen, biển số 36P1-xxxx và không có yêu cầu gì về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[3.2] Do không biết chiếc xe mô tô, hiệu Wave Alpha, màu xanh đen, biển số 36P1-xxxx là do bị cáo trộm cắp được mà có nên anh Dương Tấn T đã mua với giá 2.200.000 đồng; anh T yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền này. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Xuân H và anh Dương Tấn T thống nhất thỏa thuận về việc bị cáo bồi thường cho anh Dương Tấn T số tiền 2.200.000 đồng và đề nghị Hội đồng xét xử công nhận. Xét thấy, sự thỏa thuận đều trên cơ sở tự nguyện, nội dung thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử công nhận.

[4] Xét quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P - T, tỉnh N về việc định tội và định khung hình phạt đối với bị cáo; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo tương xứng với tính chất, mức độ hành vi nguy hiểm cho xã hội, có căn cứ và đúng pháp luật, nên chấp nhận.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và không phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Xuân H (Chịt) phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Xuân H (Chịt) 15 (Mười lăm) tháng tù; hạn tù tính từ ngày 16-10-2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ quy định tại Điều 48 của Bộ luật Hình sự;

các Điều 584, 585, 586, 589, 357, khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Công nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh Dương Tấn T về việc: Bị cáo Phạm Xuân H (Chịt) bồi thường cho anh Dương Tấn T số tiền 2.200.000 đồng (Hai triệu, hai trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Xuân H (Chịt) phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Phạm Xuân H (Chịt) không phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo và thời hạn kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Án xử công khai sơ thẩm; có mặt bị cáo - quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 06-02-2024). Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt - quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì Người được thi hành án dân sự, Người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2024/HS-ST

Số hiệu:22/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:06/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về