TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HƯƠNG TRÀ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
BẢN ÁN 22/2023/HS-ST NGÀY 14/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 9 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà, tỉnh T và điểm cầu thành phần Tòa án nhân dân tỉnh T, Tòa án nhân dân thị xã Hương Trà xét xử sơ thẩm trực tuyến công khai vụ án hình sự thụ lý số 19/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 18/2023/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thanh C (tên gọi khác: Cu Anh), sinh ngày 05/5/1993 tại tỉnh T; nơi ĐKNKTT: 02/171 Phan Đình Phùng, phường P, thành phố H, tỉnh T; chỗ ở hiện nay: 28A/15/69/131 Trần Phú, phường P, thành phố H, tỉnh T; nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; trình độ học vấn: Lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh T và bà Trần Thị Tr; chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: 02 tiền án:
- Ngày 16/4/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh T xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy” (theo Bản án số 73/HSST, chấp hành xong ngày 04/10/2018);
- Ngày 18/01/2021 bị Tòa án nhân dân tỉnh T xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo Bản án số 02/2021/HSST, với tình tiết tăng nặng “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, C chấp hành xong ngày 05/5/2022) Quá trình nhân thân:
- Ngày 03/11/2020, bị Công an huyện Phú Vang, tỉnh T xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản;
Bị tạm giữ từ ngày 12/5/2023 sau đó chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt tại điểm cầu thành phần.
2. Lê Đặng Trọng H, sinh ngày 16/01/1989 tại tỉnh T; nơi ĐKNKTT: 31 Tam Thai, phường Trường An, thành phố H, tỉnh T; chỗ ở hiện nay: 9/129 Lê Ngô Cát, phường Thủy Xuân, thành phố H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Trọng T2 và bà Đặng Thị L; chưa có vợ, con; tiền án: Không; tiền sự: 01 tiền sự:
- Ngày 12/02/2023 bị Chủ tịch UBND xã Thủy Thanh, thị xã Hương Thủy, tỉnh T xử phạt hành chính 2.500.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản (theo Quyết định số 2080/QĐ-XPHC, chấp hành xong ngày 03/4/2023);
Quá trình nhân thân:
- Ngày 07/6/2011, bị Công an thành phố H, tỉnh T xử phạt hành chính số tiền 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
- Ngày 26/3/2012 bị UBND thành phố H, tỉnh T ra quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.
- Ngày 17/4/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh T xử phạt 06 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (theo Bản án số 75/HSST, chấp hành xong ngày 11/12/2013);
Bị tạm giữ từ ngày 11/5/2023 sau đó chuyển tạm giam cho đến nay; có mặt tại điểm cầu thành phần.
- Bị hại: Ông Trương Văn Th, sinh năm 1974; nơi cư trú: Tổ dân phố Giáp Trung, phường Hương Văn, thị xã Hương Trà, tỉnh T; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Khoa T, sinh năm 2001; nơi cư trú: Số 11B/22 đường Trần Thanh Mai, phường An Đông, thành phố H, tỉnh T; có mặt.
2. Ông Lê Trọng T2, sinh năm 1951; nơi cư trú: Số 31 Tam Thai, phường Trường An, thành phố H, tỉnh T; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 04/5/2023, Lê Đặng Trọng H cùng Nguyễn Thanh C bàn bạc với nhau đi trộm cắp tài sản. Sau đó, H dùng môtô nhãn hiệu Sirius, màu đỏ - đen, biển kiểm soát: 75G1-T.17 do ông Lê Trọng T2 (Bố của H) làm chủ sở hữu, chở C đi theo Quốc lộ 1A ra hướng huyện Phong Điền rồi vòng lại vào thành phố H tìm có ai sơ hở để trộm cắp tài sản. Khi đến kiệt 127 đường Cách Mạng Tháng Tám, tổ dân phố 8, phường Tứ Hạ, thị xã Hương Trà, tỉnh T, cả hai phát hiện 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Sirius, màu đen - đỏ, biển kiểm soát 75U1- C1 của ông Trương Văn Th đậu ở bên trái đường xóm, trên xe có để sẵn chìa khóa nên C nói với H điều khiển quay đầu lại để lấy trộm. Khi đến vị trí đậu xe, H ngồi trên xe để chờ, còn C trực tiếp đến dắt xe máy khởi động xe rồi điều khiển xe lấy trộm được chạy lên đường tránh theo hướng vào thành phố H, H điều khiển xe máy chạy theo sau. Cả hai đem xe 75U1- C1 đến Trung tâm bảo trì, bảo dưỡng xe máy K, địa chỉ: 11B/22 đường Trần Thanh Mại, phường An Đông, thành phố H bán cho ông Nguyễn Khoa T với giá 1.600.000 đồng, số tiền này C không chia cho H mà nói là để chuộc xe cho em gái. Ngày 11/5/2023, Lê Đặng Trọng H ra đầu thú tại Công an thị xã Hương Trà và khai nhận hành vi trộm cắp tài sản của mình.
Tiếp tục truy xét, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà xác định đối tượng Nguyễn Thanh C và đưa về trụ sở để làm việc. Tại Cơ quan điều tra, C đã khai nhận cùng với H thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nêu trên. Ngoài ra, C còn khai nhận: Vào đầu tháng 5 năm 2023 đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 xe mô tô BKS: 75H2-K5 của một nhà dân tại xã Hương Thọ, thành phố H, tỉnh T. Ngày 23/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Hương Trà đã có công văn số 139/CV-CQCSĐT chuyển tin báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H giải quyết theo thẩm quyền.
Vật chứng thu giữ gồm:
- Thu của Nguyễn Khoa T: 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, đã qua sử dụng BKS: 75U1-C1.
- Thu của Lê Đặng Trọng H: 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius đã qua sử dụng BKS: 75G1-T.17.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 30/KL-HĐĐGTS ngày 11/5/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hương Trà đã kết luận: 01 xe mô tô 75U1- C1 tại thời điểm chiếm đoạt ngày 04/5/2023 có giá trị 3.213.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thị xã Hương Trà đã trả lại các tài sản gồm: 01 xe mô tô Yamaha Sirius BKS: 75G1-T.17, 01 xe mô tô Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS: 75U1-C1 cho các chủ sở hữu là ông Lê Trọng T2 và ông Trương Văn Th.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Trương Văn Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Khoa T yêu cầu bồi thường số tiền mua xe 1.600.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 19/CT-VKS-HTr ngày 24/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh C về tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g, khoản 2, Điều 173 Bộ luật Hình sự; bị cáo Lê Đặng Trọng H về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị:
Về hình phạt:
- Đối với bị cáo Nguyễn Thanh C: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.
- Đối với bị cáo Lê Đặng Trọng H: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
Về dân sự: Người bị hại Trương Văn Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Khoa T yêu cầu bồi thường số tiền mua xe 1.600.000 đồng. Đã được ông Lê Trọng T2 (bố của H), bồi thường 1.000.000 đồng, không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên đề nghị không xem xét.
Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố; nhận thấy hành vi này là vi phạm pháp luật; tỏ ra ăn năn, hối hận về hành vi đã gây ra. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để các bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm, làm công dân tốt cho xã hội.
Ông Lê Trọng T2 không có yêu cầu gì, chỉ xin xem xét hoàn cảnh gia đình là thân nhân liệt sĩ, có nhiều công lao cho đất được để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo H. Anh Nguyễn Khoa T không có yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Hương Trà, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên đều hợp pháp.
[2] Các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đã có đủ cơ sở kết luận:
Do cần tiền để tiêu xài nên vào chiều ngày 04/5/2023, tại tổ dân phố 9, phường Tứ Hạ, thị xã Hương Trà, tỉnh T, Nguyễn Thanh C và Lê Đặng Trọng H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô BKS: 75U1-C1 của ông Trương Văn Th, có giá trị qua định giá là 3.213.000 đồng.
[3] Các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H đã có hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt tài sản của người khác với trị giá 3.213.000 đồng. Bị cáo Nguyễn Thanh C có 02 tiền án về tội chiếm đoạt tài sản. Tại bản án số 02/2021- HS-ST ngày 18/01/2021 của TAND tỉnh T đã áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS (Tái phạm) tuyên phạt Nguyễn Thanh C mức án 01 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản, C chấp hành xong hình phạt vào ngày 05/5/2022; tính đến thời điểm phạm tội, C chưa được xóa án tích nên hành vi đó thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”; nên bị cáo Nguyễn Thanh C đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lê Đặng Trọng H đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do vậy, tại bản cáo trạng số 19/CT-VKS- HTr ngày 24/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hương Trà truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H theo tội danh và điều luật đã viện dẫn trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H thấy rằng: Các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là bị pháp luật nghiêm cấm nh vì lười lao động, muốn có tiền để tiêu xài cá nhân, các bị cáo đã lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản bị hại, để thực hiện hành vi phạm tội.
Đây là vụ án có đồng phạm nh mang tính giản đơn. Bị cáo Nguyễn Thanh C đã bàn bạc, rủ Lê Đặng Trọng H cùng đi trộm cắp tài sản. Khi cả hai phát hiện xe mô tô biển kiểm soát 75U1- C1 của ông Trương Văn Th để sơ hở, trên xe có sẵn chìa khóa thì C nói với H điều khiển xe quay đầu lại để lấy trộm. Khi đến vị trí đậu xe, H ngồi trên xe để chờ, còn C là người trực tiếp đến dắt xe, thực hiện việc chiếm đoạt tài sản rồi đem đi bán. Số tiền bán được xe mô tô này C không chia cho H nên bị cáo Nguyễn Thanh C phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án. Bị cáo Lê Đặng Trọng H đã đồng ý cùng tham gia trộm cắp tài sản với C, dùng xe mô tô của bố mình để chở C đi tìm có ai sơ hở để trộm cắp tài sản, nên cùng phải chịu trách nhiệm với bị cáo C với vai trò là người thực hành.
[5] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo thấy rằng:
Các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H không phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào. Các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cãi”; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lê Đặng Trọng H được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ: “Người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại”; “đầu thú”; có ông nội là liệt sĩ; đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H có nhân thân rất xấu, nhiều lần vi phạm pháp luật, bị Tòa án xử phạt tù nh không lấy đó làm bài học cho bản thân. Bị cáo C vừa mới chấp hành xong hình phạt tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích; bị cáo H vừa mới thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính; các bị cáo đã tiếp tục phạm tội, thể hiện rõ thái độ coi thường pháp luật. Do đó cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung như ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại Trương Văn Th đã nhận lại tài sản. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Khoa T đã nhận được số tiền bồi thường số tiền mua xe là 1.000.000 đồng. Không có ai yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
2. Về trách nhiệm hình sự:
- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh C 02 năm 03 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là từ ngày 12/5/2023.
- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Lê Đặng Trọng H 07 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là từ ngày 11/5/2023.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Nguyễn Thanh C, Lê Đặng Trọng H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai báo cho các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2023/HS-ST
Số hiệu: | 22/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hương Trà - Thừa Thiên Huế |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về