TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH GIANG, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 22/2023/HS-ST NGÀY 22/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 22/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2023/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Phú S, sinh năm 1981 tại Hải Dương. Nơi cư trú: Thôn Ph, xã Ph, huyện Gi, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Phú V (đã chết) và bà Bùi Thị Tr; có vợ (đã ly hôn năm 2013) và 01 con; tiền sự: không; tiền án, có 05 tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2015/HSST ngày 17/3/2015, Toà án nhân dân huyện Thanh Miện xử phạt 19 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; tại Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2015/HSST ngày 16/7/2015, Toà án nhân dân huyện Ninh Giang xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; tại Bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HSST ngày 25/01/2019, Toà án nhân dân huyện Ninh Giang xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; tại Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2019/HSST ngày 30/10/2019, Toà án nhân dân huyện Gia Lộc xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; tại Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2021/HS-ST ngày 07/8/2021, Toà án nhân dân huyện Ninh Giang xử phạt 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/9/2022); nhân thân: ngày 22/4/2005, Trưởng Công an phường Hải Tân, thành phố Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính số tiền 50.000đ về hành vi trộm cắp tài sản; ngày 27/12/2011, Trưởng Công an thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ về hành vi trộm cắp tài sản. Bị bắt tạm giam từ ngày 12/3/2023 đến này (hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương), có mặt tại phiên toà.
- Bị hại: Vợ chồng ông Đoàn Văn C và bà Lê Thị Th (Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Người làm chứng: Anh Lê Văn T (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Phú S có 05 tiền án về tội trộm cắp tài sản, khoảng 02 giờ 30 phút ngày 09/3/2023 Nguyễn Phú S điều khiển xe mô tô biển số 34B2 – 639.xx đi từ nhà ở thôn Ph, xã Ph đến xã Ph1, huyện Gi mục đích để trộm cắp trứng tại chuồng nuôi vịt của gia đình ông Đoàn Văn C ở thôn Ch, xã Ph1, huyện Gi. Khoảng 03 giờ sáng cùng ngày S đi đến cách chuồng vịt của gia đình ông C khoảng 100m thì xuống xe, tắt máy dựng ở lề đường bên phải, sau đó lén lút đột nhập vào chuồng vịt lấy 61 quả trứng cho vào túi nilon được S chuẩn bị mang theo từ trước, S cầm túi trứng chui qua khe hở ra ngoài thì bị ông C phát hiện, hô hoán đuổi bắt. S cầm túi trứng bỏ chạy lội qua mương nước rồi để lại cạnh bờ mương. Đuổi bắt không được, ông C quay lại thu giữ 61 quả trứng đựng trong túi nilon do S bỏ lại, 01 đối dép, 01 xe mô tô biển số 34B2 – 639.xx mang giao nộp cho Công an xã, vụ án được điều tra làm rõ.
Tại Kết luận định giá tài sản số 07/KLĐG ngày 10/3/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 61 quả trứng vịt tại thời điểm ngày 09/3/2023 có giá trị là: 158.600đ (một trăm năm mươi tám nghìn sáu trăm đồng).
Tại Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 25/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang truy tố Nguyễn Phú S về tội Trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự (BLHS).
Tại phiên tòa: VKSND huyện Ninh Giang giữ nguyên quyết định truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phú S phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phú S từ 07 đến 10 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam; không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda RSX, biển số 34B2 – 639.xx cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn Đ bị cáo đã sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản; tịch thu tiêu huỷ 01 túi nilon bị cáo dùng đựng số tài sản trộm cắp được hiện không còn giá trị; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, công nhận Quyết định truy tố và luận tội của VKSND huyện Ninh Giang đối với bị cáo là đúng. Bị cáo khai, do muốn có tiền tiêu xài nên sáng ngày 09/3/2023 bị cáo đã lén lút trộm cắp 61 quả trứng tại chuồng vịt của gia đình ông Đoàn Văn C; bị cáo hối hận về hành vi của mình và đề nghị HĐXX xem xét xử phạt bị cáo ở mức hình phạt thấp nhất.
Người bị hai là ông C, bà Th vắng mặt tại phiên tòa; tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt và lời khai trong quá trình điều tra, ông bà xác định đã nhận lại 61 quả trứng, ông bà không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì và đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận định giá tài sản và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 03 giờ sáng ngày 09/3/2023, bị cáo Nguyễn Phú S có hành vi lén lút chiếm đoạt 61 quả trứng vịt, trị giá 158.600đ (một trăm năm mươi tám nghìn sáu trăm đồng) tại chuồng nuôi vịt đẻ của gia đình ông Đoàn Văn C ở thôn Hữu Chung, xã Tân Phong, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
[2] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật song bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Mặc dù tài sản bị cáo chiếm đoạt chỉ có trị giá 158.600đ nhưng bị cáo đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản chưa được xoá án tích nên hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cầu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 của BLHS. Như vậy, Quyết định truy tố của VKSND huyện Ninh Giang đối với bị cáo là hoàn toàn có căn cứ.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, bản thân bị cáo không có nghề nghiệp, đã 05 lần bị kết án đều về tội trộm cắp tài sản; 02 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài nên lần phạm tội này cần thiết phải áp dụng loại hình phạt nghiêm khắc là hình phạt tù, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại trại giam thì mới đủ tác dụng trừng trị, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng và trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào; tài sản bị cáo trộm cắp chỉ có trị giá 158.600đ nhưng do bị cáo đã bị kết về tội trộm cắp tài sản chưa được xoá án tích nên bị cáo mới phạm tội; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo có cả bố và mẹ đẻ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến; được người bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS.
[5] Về hình phạt bổ sung: Bản thân bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản gì có giá trị nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về xử lý vật chứng: Số tài sản bị cáo trộm cắp (61 quả trứng vịt) của bị hại; 01 đôi dép, 01 quần bò, 01 áo khoác đen của bị cáo đã được cơ quan điều tra xử lý trả lại bị hại và bị cáo đúng quy định của pháp luật; 01 túi nilon bị cáo dùng đựng số tài sản trộm cắp được hiện không có giá trị nên tịch thu tiêu huỷ; 01 xe mô tô biển số 34B2 – 639.xx cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn Đ là tài sản của bị cáo được sử dụng làm phương tiện phạm tội nay tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Số tài sản bị cáo trộm cắp (61 quả trứng vịt) đã được thu hồi trả lại cho bị hại, nay bị hại không yêu cầu, đề nghị gì nên HĐXX không xem xét giải quyết.
[8] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về các hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ninh Giang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Giang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phú S phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phú S 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 12 tháng 3 năm 2023.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu huỷ: 01 túi nilon; tịch thu nộp ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô biển số 34B2 – 639.xx cùng Giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn Đ (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ninh Giang và Chi cục thi hành án dân sự huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương ngày 27/4/2023; 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe được chuyển cho Cơ quan thi hành án dân sự kèm theo bản án).
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về… án phí và lệ phí Tòa án. Xử buộc bị cáo Nguyễn Phú S phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 22 tháng 5 năm 2023; người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2023/HS-ST
Số hiệu: | 22/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ninh Giang - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về