TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH
BẢN ÁN 22/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 20/2022/TLST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2020/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:
Bị cáo: Nguyễn Thanh T sinh năm 1994; Nơi sinh: tỉnh Trà Vinh.
Nơi cư trú: Khóm X, phường Y, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 1/12; Nghề nghiệp: không; Con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1968 và bà Ngô Thị L, sinh năm: 1970; Vợ: sinh năm 1992 (ly hôn); con: 02 người (lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2016); Anh, Chị, em ruột có 03 người kể cả bị cáo, lớn nhất sinh năm 1992, nhỏ nhất sinh năm 1996; Tiền án: không; Tiền sự: không; Nhân thân bị cáo: Ngày 08/6/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước xử 01 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” đã chấp hành xong bản án vào ngày 15 tháng 1 năm 2021. Bị cáo bị Công an thị xã Duyên Hải tạm giam từ ngày 04-8-2022 tại Nhà tạm giữ Công an thị xã Duyên Hải cho đến nay.
Bị hại:
- Bị hại :Ông Phan Văn Đ, sinh năm 1970, trú tại: ấp 10, xã L, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh. Vắng mặt - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ Ông Nguyễn Văn S sinh năm 1968. Nơi cư trú: Khóm X, phường Y, thị xã DH, tỉnh Trà Vinh. Vắng mặt.
2/ Ông Nguyễn Minh H sinh năm 1977. Nơi cư trú: ấp Đ, xã ĐH, huyện DH, tỉnh Trà Vinh. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 18 giờ 00 ngày 09/12/2017, Nguyễn Thanh T và đối tượng tên H (chưa rõ nhân thân, lai lịch) là bạn quen nhau trước đây gặp nhau tại khu vực tập kết ghe lưới gần cầu Láng Chim. Trên đường cùng nhau đi bộ về đến cầu Bà Bẹ thuộc ấp 10, xã Long H thì nhìn thấy chiếc ghe (loại ghe có gắn máy D15 và hộp số), trên ghe có 1000 mét lưới loại lưới 04 phân, dạo dài 80 mặt lưới và 20 lít dầu của ông Phan Văn Đ, sinh năm 1970 ngụ ấp 10, xã Long H, thị xã DH đang neo đậu dưới sông gần cầu Bà Bẹ cách nhà ở khoảng 200m không người trông coi nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. H nói với T hai thằng mình thằng nào cũng kẹt tiền, nợ nần tối nay lấy ghe này bán kiếm tiền xài thì T đồng ý, sau đó hai người đi trở về khu vực cầu Láng Chim. Đến khoảng 21 giờ 00 cùng ngày, T và H đi bộ đến cầu Bà Bẹ để thực hiện hành vi trộm ghe như đã hẹn. Đến nơi, hai người cùng đi xuống ghe, T mở dây buộc mũi ghe, H mở dây buộc đích ghe thả ghe trôi một đoạn, sau đó H quay nổ máy rồi điều khiển ghe chở T chạy vòng xuống đến khu vực sông thuộc ấp V, xã L, huyện DH rồi neo ghe dưới sông và nằm ngủ. Đến trưa ngày 11/12/2017, T bán chiếc ghe trộm được cho ông Nguyễn Minh H, sinh năm 1977 ngụ ấp Đ, xã ĐH, huyện DH với giá 5.000.000 đồng, số tiền này T và H chia nhau tiêu xài cá nhân hết.
Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 28/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thị xã Duyên Hải, kết luận : 01 (một) chiếc ghe bằng gỗ có gắn máy D15 và hộp số, có chiều dài 08m, chiều ngang 02m, mũi tam bản, lái đích tàu, nặng hơn một tấn, với giá: 18.000.000 đồng; 01 (một) đoạn lưới dùng để giăng bắt cá dài 1000m, loại lưới 04 phân, dạo dài 80 mặt lưới, với giá: 7.080.000 đồng; 02 (hai) can đựng dầu hiệu Sitto SiRen mỗi can 05 lít không còn giá trị sử dụng và 20 (hai mươi) lít dầu loại dầu lửa đỏ dùng để chạy máy, với giá: 304.000 đồng. Tổng tài sản bị thiệt hại là 25.384.000 đồng.
Khi thực hiện hành vi trộm cắp xong bị can đi làm ở huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước và tiếp tục thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản bị xử phạt 01 năm tù đã chấp hành xong hiện nay còn tiền án nhưng tiền án này không được tính là tái phạm. Vì tiền án này là của hành vi phạm tội xảy ra sau hành vi bị truy tố. Bị can phạm tội nhưng trong quá trình điều tra đã ăn năn hối cải và đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Bị can có ông ngoại là người có công với cách mạng nên xem xét tình tiết giảm nhẹ theo quy định của Bộ luật hình sự.
Về vật chứng: Cơ quan CSĐT đã tạm giữ: 01 (một) chiếc ghe bằng gỗ có gắn máy D15 và hộp số, có chiều dài 08m, chiều ngang 02m, mũi tam bản, lái đích tàu, nặng hơn một tấn; 01 (một) đoạn lưới dùng để giăng bắt cá dài 1000m, loại lưới 04 phân, dạo dài 80 mặt lưới; 01 (một) can đựng dầu hiệu Sitto SiRen loại 05 lít. Đến ngày 29/12/2017, đã trả lại cho chủ sở H toàn bộ số tài sản trên.
Về phần trách nhiệm dân sự: Bị hại Phan Văn Đ đã nhận lại phần lớn tài sản bị mất, còn lại 20 lít dầu không yêu cầu bị can phải bồi thường. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Minh H đã nhận lại đủ số tiền bị thiệt hại nên không còn yêu cầu gì khác đối với bị can. Riêng số tiền 5.000.000 đồng mà ông Nguyễn Văn Sỉ bỏ ra để khắc phục cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, ông Sỉ không yêu cầu bị can phải trả lại. Bị can Nguyễn Thanh T đại diện tác động gia đình đã bồi thường xong phần trách nhiệm dân sự nhưng không yêu cầu đối tượng tên H phải trả lại.
Riêng đối với đối tượng tên H mà bị can khai nhận đã cùng bị can thực hiện hành vi Trộm cắp tài sản nêu trên nhưng bị can không biết rõ họ tên đầy đủ của đối tượng H và địa chỉ cụ thể ở đâu nên chưa có cơ sở để xử lý, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.
Tại bản cáo trạng số 29/CT-VKS-HS ngày 15-9-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Thanh T thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, bị cáo chỉ yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị hại ông Phan Văn Đ vắng mặt tuy nhiên trong hồ sơ vụ án ông Định yêu cầu Tòa án xét xử bị cáo T về trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật Kiểm sát viên tham gia phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố, phân tích đánh giá tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; về trách nhiệm dân sự bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu nên không xem xét. Ngoài ra vị kiểm sát viên còn đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Thanh T nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Kết quả thẩm vấn, tranh luận công khai tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ kết luận: Vào khoảng 21 giờ 00 phút ngày 09/12/2017, tại ấp 10, xã Long H, thị xã DH, Nguyễn Thanh T có hành vi lén lút lấy trộm 01 chiếc ghe (loại ghe có gắn máy D15 và hộp số), trên ghe có 1000 mét lưới loại lưới 04 phân, dạo dài 80 mặt lưới và 20 lít dầu của ông Phan Văn Đ , tổng tài sản bị xâm hại là 25.384.000 đồng (hai mươi lăm triệu ba trăm tám mươi bốn nghìn đồng). Do đó đủ cơ sở quy kết bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
[2] Xét tính chất của vụ án là ít nghiêm nghiêm trọng, bị cáo Nguyễn Thanh T có đầy đủ khả năng nhận thức, bị cáo nhận thức được việc trộm cắp tài sản của người khác sẽ bị pháp luật trừng trị, nhưng với bản chất thích ăn chơi, đua đòi hưởng thụ, nhưng chây lười lao động,khi được đối tượng tên H rủ rê việc trộm cắp tài sản, bị cáo đã đồng ý. Bị cáo và đối tượng H tiến hành việc trộm cắp tài sản là 01 chiếc ghe (loại ghe có gắn máy D15 và hộp số), trên ghe có 1000 mét lưới loại lưới 04 phân, dạo dài 80 mặt lưới và 20 lít dầu của ông Phan Văn Đ , tổng tài sản bị xâm hại là 25.384.000 đồng (hai mươi lăm triệu ba trăm tám mươi bốn nghìn đồng) của bị hại là ông Phan Văn Đ. Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm đến quyền sở H hợp pháp được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự xã hội ở địa phương. Xét thấy cần phải lên cho bị cáo một mức án tương xứng để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[3] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, cũng cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, bị cáo đã tác động gia đình bị cáo khắc phục hậu quả cho bị hại, ông ngoại của bị cáo có công với cách mạng; đây là các tình tiết được quy định tại điểm b,s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật.
[4] Xét việc đối tượng tên H mà bị cáo khai nhận đã cùng bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nêu trên nhưng bị cáo không biết rõ họ tên đầy đủ của đối tượng H và địa chỉ cụ thể ở đâu nên chưa có cơ sở để xử lý, khi nào làm rõ được sẽ xử lý sau.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay bị hại ông Phan Văn Đ, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án gồm ông Nguyễn Văn S, Nguyễn Minh H vắng mặt nhưng trong hồ sơ vụ án bị hại nhận được tài sản và các đương sự còn lại không yêu cầu gì về phần trách nhiệm dân sự, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Duyên Hải, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Duyên Hải, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp. Tuy nhiên tại thời điểm bị cáo T phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” vào năm 2020 tại huyện Lộc Ninh, tỉnh Bình Phước, bị cáo T đã khai hành vi trộm cắp tải sản của bị cáo tại thị xã Duyên Hải và cơ quan điều tra Công an huyện Lộc Ninh đã yêu cầu Cơ quan điều tra Công an thị xã Duyên Hải làm rõ hành vi này của bị cáo, nhưng Cơ quan điều tra chỉ tiến hành sau khi bị cáo đã chấp hành xong bản án vào năm 2021 tức chậm trễ hơn 01 năm, Công an thị xã Duyên Hải cần rút kinh nghiệm về nội dung này.
[7] Xét bản cáo trạng của Viện kiểm sát, quan điểm luận tội của Kiểm sát viên về tội danh, hình phạt tù là có căn cứ, phù hợp pháp luật, được Hội đồng xét xử chấp nhận [8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh T 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 04-8-2022.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không yêu cầu nên không xem xét.
Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Án xử sơ thẩm bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2022/HS-ST
Số hiệu: | 22/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Duyên Hải - Trà Vinh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về