TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Đ, TỈNH KON TUM
BẢN ÁN 22/2021/HS-ST NGÀY 13/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 12 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Kon Tum, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 24/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Thanh T, sinh năm 1991 tại tỉnh Kon Tum; trú tại: Khối 6, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn T và bà Nguyễn Thị Mỹ H, có vợ là Phan Thị V (đã ly hôn) và 02 con, sinh năm 2016 và năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2021 đến nay, có mặt.
- Bị hại: Anh Đặng Văn M, sinh năm 1987 Trú tại: Khối 8, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum. Có mặt.
- Người làm chứng:
+ Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1975; trú tại: Thôn Đăk Rao Lớn, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt.
+ Anh Bùi Đình Th, sinh năm 1987; trú tại: Khối 6, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Kon Tum. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trưa ngày 19/9/2021, bị cáo Nguyễn Thanh T đi bộ quanh khu vực thôn Đăk Rao Lớn, thị trấn Đ, huyện Đ tìm tài sản trộm cắp. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi ngang qua nhà chị Hoàng Thị Hằng, bị cáo thấy một chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA AirBlade, biển kiểm soát 82E1 – X.43 của anh Đặng Văn M đang dựng trong sân, còn cắm chìa khóa nên điều khiển xe lẩn trốn. Bị cáo đã điều khiển xe mô tô đến dựng ngoài đường trước nhà anh Bùi Đình T, rồi đi vào nhà. Đến khoảng 13 giờ 50 phút cùng ngày, khi bị cáo đang ngồi chơi tại nhà anh Thái thì bị Công an thị trấn Đ phát hiện.
Tại Kết luận định giá tài sản số 18/KL-ĐGTS ngày 21/9/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Đ xác định: Xe HONDA Air Blade trị giá 23.000.000 (hai mươi ba triệu) đồng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thanh T thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, phù hợp với nội dung vụ án đã nêu trên.
Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 12/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Kon Tum truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo từ 8 đến 12 tháng tù.
Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng trước đó đã có lời khai tại Cơ quan điều tra, không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên vẫn tiến hành xét xử.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, trên cơ sở tranh tụng tại phiên tòa đã xác định được: Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 19/9/2021, tại thôn Đăk Rao Lớn, thị trấn Đ, huyện Đ, lợi dụng sơ hở trong việc quản lý tài sản, bị cáo Nguyễn Thanh T đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA AirBlade, biển kiểm soát 82E1-X.43, của anh Đặng Văn M, trị giá 23.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Xét thấy, cần có một mức án nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo không có tiền án, tiền sự, nhưng đã bị cơ quan có thẩm quyền nhắc nhở về hành vi quậy phá, chửi bới các thành viên trong gia đình. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có các tình tiết giảm nhẹ: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.
[7] Đối với đối tượng trước đây bán ma túy cho bị cáo: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tổ chức xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên sẽ tiếp tục xác minh để xử lý theo quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 19/9/2021.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Thanh T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (13/12/2021), bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 22/2021/HS-ST
Số hiệu: | 22/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đắk Tô - Kon Tum |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về