TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 221/2022/HS-ST NGÀY 09/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 207/2022/TLST - HS, ngày 15 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 220/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Ngô Văn P; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 09 tháng 8 năm 1987; Tại: Tỉnh Đắk Lắk.
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Không;
Nơi cư trú: Tổ dân phố 5, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Con ông: Ngô Văn N, sinh năm: 1962; Con bà: Lê Thị S, sinh năm: 1963. Bị cáo có vợ là chị Nguyễn Thị L, sinh năm: 1983; có 02 con, con lớn nhất sinh năm: 2014, con nhỏ nhất sinh năm: 2015.
Bị cáo thực hiện nghĩa vụ quân sự tại đơn vị Bộ binh, tiểu đoàn BB8, Quân khu 5, Bộ Quốc Phòng. Đến ngày 18/01/2011 thì xuất ngũ về địa phương.
Tiền án, Tiền sự: Không.
Bị cáo Ngô Văn P đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố B, từ ngày 29/3/2022 cho đến nay. Có mặt.
Bị hại:
1. Ông Nguyễn Th M, sinh năm: 1973 (Có mặt); Địa chỉ: 165/12 Y Ng, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
2. Ông Lê Thiên P, sinh năm: 1992 (Có đơn xin xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 1, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
3. Bà Phạm Thị Kim Th, sinh năm: 1956 (Vắng mặt) Địa chỉ: 07 đường P, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
4. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm: 1982 (Vắng mặt) Địa chỉ: 123/5 đường M, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Lê Minh L, sinh năm: 1975; Địa chỉ: 441 đường L, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
2. Ông Vũ Quang Đ, sinh ngày 04/4/2004; 257 đường L, phường E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ ngày 19/02/2022 đến ngày 25/3/2022 tại địa bàn thành phố B, Ngô Văn P (sinh năm: 1987, trú tại: Tổ dân phố 5, phường E, thành phố B) đã thực hiện nhiều vụ trộm cắp tài sản, cụ thể:
Vụ thứ nhất: Khoảng 13 giờ 30 Pt, ngày 19/02/2022 Ngô Văn P đi đến tiệm dịch vụ quảng cáo của anh Lê Thiên P, địa chỉ 13 Y, phường T, thành phố B thấy trên bàn gần chỗ anh L và Hồ Phong Anh D (là các nhân viên của tiệm quảng cáo) đang đứng có để một chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 Pro max, màu xanh là tài sản của anh Lê Thiên P nên P giả vờ nói với anh P và D là muốn đặt làm biển quảng cáo mục đích để anh P và D sơ hở trong việc quản lý tài sản để trộm cắp. Khi anh P và D đang tìm kiếm hình thức quảng cáo thì P lén lút trộm cắp chiếc điện thoại Iphone 12 Pro max cất giấu vào túi quần rồi đi ra ngoài tẩu thoát. Sau đó P đi trên đường H, thành phố B thấy tiệm cầm đồ V do anh Châu Tất V (là chủ tiệm cầm đồ), địa chỉ 13 H, phường T, thành phố B nên đi vào. Tại đây, P gặp anh V và một người khách nam (chưa rõ nhân thân, lai lịch) đang đứng phía trước tiệm, P nói với anh V là muốn bán điện thoại thì anh V nói tiệm chỉ nhận cầm đồ chứ không mua điện thoại, rồi anh V đi vào phía sau nhà để làm việc. Lúc này, còn lại P và người khách nam (chưa rõ nhân thân lai lịch) ở phía trước tiệm thì người khách nam hỏi P muốn bán điện thoại giá bao nhiêu, P nói bán giá 3.000.000 đồng. Người khách nam xem điện thoại thì đồng ý mua và trả số tiền 3.000.000 đồng cho P. Sau khi bị trộm cắp tài sản thì anh Lê Thiên P làm đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, để xử lý.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 58 ngày 16 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, dung lượng 128Gb (tài sản không thu hồi được), trị giá 21.500.000 đồng.
Quá trình điều tra xác định: Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, dung lượng 128Gb là tài sản của anh Lê Thiên P (sinh năm: 1992, trú tại: Thôn 1, xã E, thành phố B). Hiện anh P yêu cầu Ngô Văn P bồi thường số tiền 21.500.000 đồng (là trị giá tài sản bị trộm cắp).
Vụ thứ hai: Khoảng 14 giờ ngày 04/3/2022, Ngô Văn P đi đến tiệm photocopy do bà Phạm Thị Kim Th (là chủ tiệm) địa chỉ 07 đường P, phường T, thành phố B. P đi vào bên trong tiệm giả vờ hỏi bà Th là có phô tô màu không thì bà Th nói không có và tiếp tục phô tô cho khách hàng, P quan sát xung quanh trong tiệm phô tô thấy ở ngăn tủ kính đựng đồ bán hàng trong tiệm có để một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu trắng nên lén lút trộm cắp chiếc điện thoại iphone 7 plus màu trắng, cất giấu vào túi quần rồi tẩu thoát. Trên đường đi, P thấy điện thoại đang bị khóa màn hình nên thử mở khóa, P ấn sáu lần số 0 thì mở khóa được màn hình Khi đi trên đường L, thành phố B, thấy tiệm kinh doanh điện thoại Quang Đ, do anh Vũ Quang Đ (là chủ quản lý) địa chỉ 257 đường L, phường E, thành phố B nên P đi vào gặp anh Đ để bán điện thoại. Sau khi kiểm tra điện thoại anh Đ không biết đây là chiếc điện thoại do P trộm cắp mà có nên mua điện thoại số tiền là 1.000.000 đồng thì P đồng ý bán. Sau đó đến ngày 06/3/2022 anh Đ đã bán chiếc điện thoại mua của P trên cho một người khách nam (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với số tiền 2.000.000 đồng (Cơ quan điều tra chưa thu giữ được).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 58 ngày 16 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 7Plus, màu trắng, dung lượng 32Gb (tài sản không thu hồi được), trị giá 2.800.000 đồng.
Quá trình điều tra xác định: Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 7Plus, màu trắng, dung lượng 32Gb, là tài sản của bà Phạm Thị Kim Th (sinh năm: 1956, trú tại: 07 đường P, thành phố B). Hiện bà Th yêu cầu Ngô Văn P bồi thường số tiền 2.800.000 đồng (là trị giá chiếc điện thoại bị trộm cắp).
Vụ thứ ba: Khoảng 15 giờ ngày 25/3/2022, Ngô Văn P đi đến căn nH của anh Nguyễn Th M (sinh năm: 1973), địa chỉ 165/12 Y Ng, phường T, thành phố B, thấy cửa mở không có người trông coi nên P đi vào trong nhà tìm kiếm tài sản để trộm cắp. P vào trong phòng khách thấy một chiếc máy tính xách tay, nhãn hiệu Dell 14-3467, màu đen đang để trên bàn gỗ nên đã trộm cắp chiếc máy tính xách tay, nhãn hiệu Dell 14-3467, màu đen của anh M rồi tẩu thoát. Khi đi trên đường L, thành phố B thì P thấy tiệm kinh doanh dịch vụ cầm đồ C, do anh Lê Minh L (sinh năm: 1975, là chủ quản lý), địa chỉ 441D đường L, phường E, thành phố B nên đi vào gặp anh L cầm cố máy tính laptop hiệu Dell trộm cắp của anh M. Sau khi kiểm tra máy tính laptop, Anh L không biết chiếc máy tính laptop là tài sản do P trộm cắp nên đã nhận cầm cố số tiền 4.000.000 đồng. Đến ngày 26/3/2022 P sử dụng điện thoại hiệu Nokia Ta-1174 gắn sim số thuê bao 0587519428 gọi điện thoại cho anh L để thoả thuận bán chiếc máy tính laptop với số tiền 4.200.000 đồng thì anh L đồng ý. P nói anh L mua card điện thoại Viettel mệnh giá 200.000 đồng gửi cho P thì anh L đồng ý. P nạp mã thẻ vào thuê bao số 0587519428 của P rồi sử dụng hết. Ngày 28/3/2022 anh Nguyễn Th M làm đơn trình báo đến Cơ quan điều tra để xử lý.
Quá trình điều tra anh Lê Minh L đã tự nguyện giao nộp chiếc máy vi tính xách tay nhãn hiệu Dell 14-3467, màu đen, màn hình 14 icnh, corei 5 - 7200U, ram 4 Gb, đã qua sử dụng cho Cơ quan điều tra.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 50 ngày 30 tháng 3 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: Chiếc máy vi tính xách tay nhãn hiệu Dell 14-3467, màu đen, màn hình 14 icnh, corei 5 - 7200U, ram 4 Gb, trị giá là 7.400.000 đồng.
Quá trình điều tra xác định: Chiếc máy vi tính xách tay nhãn hiệu Dell 14- 3467, màu đen, màn hình 14 icnh, corei 5 - 7200U, ram 4 Gb, là tài sản của anh Nguyễn Th M. Ngày 7/6/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh M nhận quản lý sử dụng.
Đối với số tiền 4.200.000 đồng là số tiền anh Lê Minh L mua chiếc máy tính Laptop của Ngô Văn P trộm cắp. Ngày 10/6/2022 anh L yêu cầu Ngô Văn P bồi thường số tiền 4.200.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra Ngô Văn P khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 08/3/2022, Ngô Văn P đi bộ đến cửa Hàng bán quần, áo do chị Nguyễn Thị H (là chủ quản lý), địa chỉ 135 đường P, phường T, thành phố B thấy trong cửa hàng chỉ có một mình chị H nên P đi vào trong cửa Hàng giả vờ cầm chiếc áo lên hỏi giá tiền, đồng thời yêu cầu chị H lấy cỡ áo lớn hơn. Chị H đi đến phía sau tìm lấy áo cỡ lớn hơn thì P quan sát để tìm tài sản trộm cắp. Sau đó chị H mang chiếc áo cỡ lớn hơn đi ra chỗ P đứng thì p thấy chị H đang cầm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A20s màu xanh, gắn ốp lưng màu xanh đen. Sau đó chị H đặt chiếc điện thoại lên bàn máy may gần cửa ra vào và lấy chiếc áo trong túi ni lon ra đưa P mặc thử. P mặc nhưng không vừa và yêu cầu chị H lấy áo cỡ lớn hơn. Khi thấy chị H đi đến phía sau tìm áo không ai quản lý chiếc điện thoại Samsung thì P đã trộm cắp chiếc điện thoại hiệu Samsung của chị H cất giấu vào túi quần rồi tẩu thoát. Sau khi bị trộm cắp chiếc điện thoại chị H làm đơn trình báo đến Cơ quan điều tra để xử lý.
Cơ quan điều tra đã tạm giữ chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy A20s, màu xanh và các đĩa VCD ghi lại hình ảnh phạm tội của Ngô Văn P để phục vụ công tác điều tra.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 58 ngày 16 tháng 4 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy A20s, màu xanh, số imei1: 353248116408665; số imei2: 353249116408663, dung lượng 32Gb, trị giá 1.000.000 đồng.
Quá trình điều tra xác định: Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy A20s, màu xanh, số imei1: 353248116408665; số Imei2: 353249116408663, dung lượng 32Gb, là tài sản của chị Nguyễn Thị H (sinh năm: 1982, trú tại: 123/5 M, phường T, thành phố B). Ngày 24/5/2022 Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị H nhận quản lý sử dụng.
Đối với ốp lưng nhựa màu xanh đen đã bị hư hỏng, chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Cơ quan điều tra xử lý và không yêu cầu Ngô Văn P bồi thường nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
Bản cáo trạng số: 222/CT-VKS-HS ngày 13/7/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã truy tố bị cáo Ngô Văn P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà, Đ diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột sau khi phân tích đánh giá Hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo Ngô Văn P phạm tội: “ Trộm cắp tài sản” Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ Luật hình sự, đề nghị Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn P mức án: Từ 18 tháng đến 24 tháng tù.
Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;
- Đối với Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, dung lượng 128Gb, quá trình điều tra xác định là tài sản của anh Lê Thiên P (sinh năm: 1992, trú tại: Thôn 1, xã E, thành phố B). Hiện anh P yêu cầu Ngô Văn P bồi thường số tiền 21.500.000 đồng (là trị giá tài sản bị trộm cắp).
- Đối với Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 7Plus, màu trắng, dung lượng 32Gb, quá trình điều tra xác định là tài sản của bà Phạm Thị Kim Th (sinh năm: 1956, trú tại: 07 p, thành phố B). Hiện bà Th yêu cầu Ngô Văn P bồi thường số tiền 2.800.000 đồng (là trị giá chiếc điện thoại bị trộm cắp).
- Đối với chiếc máy vi tính xách tay nhãn hiệu Dell 14-3467, màu đen, màn hình 14 icnh, corei 5 - 7200U, ram 4 Gb, đã qua sử dụng; Quá trình điều tra anh Lê Minh L đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra; Ngày 7/6/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh M nhận quản lý sử dụng là phù hợp cần chấp nhận.
- Đối với số tiền 4.200.000 đồng là số tiền anh Lê Minh L mua chiếc máy tính Laptop của Ngô Văn P trộm cắp của anh M. Ngày 10/6/2022 anh L yêu cầu Ngô Văn P bồi thường số tiền 4.200.000 đồng là phù hợp.
- Đối với Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy A20s, màu xanh, số imei1: 353248116408665; số imei2: 353249116408663, dung lượng 32Gb, Quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Nguyễn Thị H (sinh năm: 1982, trú tại: 123/5 M, phường T, thành phố B). Ngày 24/5/2022 Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị H nhận quản lý sử dụng là phù hợp cần chấp nhận.
- Đối với ốp lưng nhựa màu xanh đen đã bị hư hỏng, chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Cơ quan điều tra xử lý và không yêu cầu Ngô Văn P bồi thường nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.
- Đối với hành vi Ngô Văn P trộm cắp 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy A20s, màu xanh, trị giá 1.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị H, vào ngày 08/3/2022, tại địa chỉ số 135 p, phường T, thành phố B. Quá trình điều tra xác định: Ngô Văn P chưa có tiền án, tiền sự về các tội chiếm đoạt tài sản, trị giá tài sản Ngô Văn P trộm cắp không đủ định lượng nên Hành vi của p không cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Do vậy Công an thành Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với p về hành vi Trộm cắp tài sản, mức xử phạt 2.500.000 đồng, quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 15, Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ là phù hợp.
- Đối với: Anh Vũ Quang Đ là người mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus mà Ngô Văn P trộm cắp của bà Phạm Thị Kim Th; Anh Lê Minh L mua chiếc máy vi tính xách tay nhãn hiệu Dell 14-3467 mà Ngô Văn P trộm cắp của ông Nguyễn Th M. Quá trình điều tra xác định: Anh Vũ Quang Đ không biết chiếc điện thoại hiệu Iphone 7Plus; anh Lê Minh L không biết chiếc máy vi tính xách tay nhãn hiệu Dell 14-3467, là các tài sản do Ngô Văn P phạm tội mà có. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý anh Vũ Quang Đ và anh Lê Minh L, là phù hợp.
- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1174 gắn sim số 0587519428. Quá trình điều tra xác định: Ngô Văn P không sử dụng điện thoại hiệu Nokia TA-1174 để thực hiện Hành vi phạm tội. Ngày 26/3/2022 p đã bán chiếc điện thoại cho người đàn ông (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mà P gặp khi đi đường lấy số tiền 100.000 đồng, Cơ quan điều tra không thu giữ được nên không đề cập xử lý.
- Đối với người đàn ông (chưa rõ nhân thân lai lịch) mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax Ngô Văn P trộm cắp của anh Lê Thiên P. Hiện Cơ quan điều tra chưa làm việc được nên tách ra khỏi vụ án tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
- Đối với 03 đĩa VCD ghi hình ảnh phạm tội của bị cáo Ngô Văn P cần chuyển theo hồ sơ vụ án để phục vụ công tác xét xử.
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ Hành vi của các bị cáo đúng như nội dung trên, và không có ý kiến gì khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình thực hiện các quyết định điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến Hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các Hành vi của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận của bị cáo Ngô Văn P tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ thu thập có trong hồ sơ vụ án đã có cơ sở xác định:
Do ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác nên khoảng 13 giờ 30 Pt ngày 19/02/2022 tại tiệm quảng cáo địa chỉ: 13 Y B, phường T, thành phố B, Ngô Văn P đã trộm cắp của anh Lê Thiên P 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 12 promax, trị giá là 21.500.000 đồng. Đến khoảng 14 giờ ngày 04/3/2022, tại tiệm photocopy địa chỉ 07 P, phường T, thành phố Buôn Ma Thuột, Ngô Văn P trộm cắp của bà Phạm Thị Kim Th 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, trị giá là 2.800.000 đồng và đến khoảng 15 giờ ngày 25/3/2022 Ngô Văn P đã trộm cắp của anh Nguyễn Th M 01 chiếc máy tính Laptop hiệu Dell màu đen, trị giá là 7.400.000 đồng. Tổng trị giá các tài sản trộm cắp là 31.700.000 đồng.
Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Ngô Văn P về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...
[3] Xét thấy, bị cáo là công dân có đầy đủ khả năng nhận thức và khả năng điều khiển Hành vi của bản thân trong cuộc sống, bị cáo biết rằng tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi Hành vi trái pháp luật xâm phạm đến tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác đều sẽ bị pháp luật trừng trị. Song do tham lam tư lợi nên bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện Hành vi phạm tội. Do đó đối với Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.
[4]. Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Ngô Văn P phạm tội 02 lần trở lên nên là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS.
Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo; Phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo từng có thời gian phục vụ trong Quân đội nhân dân là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để thể hiện được chính sách khoan hồng, nhân đạo của pháp luật NH nước ta.
[5]. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, Điều 47 Bộ Luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Đối với chiếc máy vi tính xách tay nhãn hiệu Dell 14-3467, màu đen, màn hình 14 icnh, corei 5 - 7200U, ram 4 Gb, đã qua sử dụng; Quá trình điều tra anh Lê Minh L đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra; Ngày 7/6/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho anh M nhận quản lý sử dụng cần chấp nhận.
- Đối với số tiền 4.200.000 đồng là số tiền anh Lê Minh L mua chiếc máy tính Laptop của Ngô Văn P trộm cắp của anh M. Ngày 10/6/2022 anh L yêu cầu Ngô Văn P bồi thường số tiền 4.200.000 đồng là phù hợp cần chấp nhận.
- Đối với Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 12 Promax, màu xanh, dung lượng 128Gb, quá trình điều tra xác định là tài sản của anh Lê Thiên P, không thu giữ được nên anh Lê Thiên P yêu cầu bị cáo Ngô Văn P bồi thường số tiền 21.500.000 đồng (là trị giá tài sản bị trộm cắp) là phù hợp cần chấp nhận.
- Đối với Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 7Plus, màu trắng, dung lượng 32Gb, quá trình điều tra xác định là tài sản của bà Phạm Thị Kim Th không thu giữ được nên bà Th yêu cầu Ngô Văn P bồi thường số tiền 2.800.000 đồng (là trị giá chiếc điện thoại bị trộm cắp) là phù hợp cần chấp nhận.
- Đối với Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy A20s, màu xanh, số imei1: 353248116408665; số imei2: 353249116408663, dung lượng 32Gb, Quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Nguyễn Thị H (sinh năm: 1982, trú tại: 123/5 M, phường T, thành phố B). Ngày 24/5/2022 Cơ quan điều tra ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại cho chị H nhận quản lý sử dụng cần chấp nhận.
- Đối với ốp lưng nhựa màu xanh đen đã bị hư hỏng, chị Nguyễn Thị H không yêu cầu Cơ quan điều tra xử lý và không yêu cầu Ngô Văn P bồi thường nên Cơ quan điều ha không đề cập xử lý.
[6] Các tình tiết khác: Đối với Hành vi Ngô Văn P trộm cắp 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy A20s, màu xanh, trị giá 1.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị H, vào ngày 08/3/2022. Quá trình điều tra xác định: Ngô Văn P chưa có tiền án, tiền sự về các tội chiếm đoạt tài sản, trị giá tài sản Ngô Văn P trộm cắp không đủ định lượng nên hành vi của P không cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Do vậy Công an thành Buôn Ma Thuột ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với p về hành vi Trộm cắp tài sản, mức xử phạt 2.500.000 đồng, quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 15, Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ là phù hợp cần chấp nhận.
Đối với: Anh Vũ Quang Đ là người mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus mà Ngô Văn P trộm cắp của bà Phạm Thị Kim Th; Anh Lê Minh L mua chiếc máy vi tính xách tay nhãn hiệu Dell 14-3467 mà Ngô Văn P trộm cắp của ông Nguyễn Th M. Quá trình điều tra xác định: Anh Vũ Quang Đ không biết chiếc điện thoại hiệu Iphone 7Plus, anh Lê Minh L không biết chiếc máy vi tính xách tay nhãn hiệu Dell 14-3467, là các tài sản do Ngô Văn P phạm tội mà có. Do vậy, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý anh Vũ Quang Đ và anh Lê Minh L, là phù hợp cần chấp nhận.
Đối với người đàn ông mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax mà bị cáo P trộm cắp của anh Lê Thiên P. Quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch và chưa làm việc được với người đàn ông nói trên nên Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.
Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia TA-1174 gắn sim số 0587519428. Quá trình điều tra xác định: Ngô Văn P không sử dụng điện thoại hiệu Nokia TA-1174 vào việc thực hiện Hành vi phạm tội và ngày 26/3/2022 P đã bán chiếc điện thoại cho người đàn ông (chưa rõ nhân thân, lai lịch) mà p gặp khi đi đường lấy số tiền 100.000 đồng, Cơ quan điều tra không thu giữ được nên không đề cập xử lý là phù hợp.
Đối với 03 đĩa VCD ghi hình ảnh phạm tội của bị can Ngô Văn P cần chuyển theo hồ sơ vụ án để phục vụ công tác xét xử.
[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và bị cáo phải chịu tiền án phí DSST đối với số tiền phải bồi thường cho bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cụ thể: 28.500.000đ x 5% = 1.425.000đ án phí DSST theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ vào khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;
Tuyên bố bị cáo Ngô Văn P phạm tội: “Trộm cắp tài sản” Xử phạt: Bị cáo Ngô Văn P: 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp Hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giam từ ngày 29/3/2022.
[2] Các biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, Điều 47 Bộ Luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;
- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc máy vi tính xách tay nhãn hiệu Dell 14-3467, màu đen, màn hình 14 icnh, corei 5 - 7200U, ram 4 Gb, đã qua sử dụng cho anh Nguyễn Th M nhận quản lý sử dụng và trả Chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung Galaxy A20s, màu xanh, số imei1: 353248116408665; số imei2: 353249116408663, dung lượng 32Gb cho chị Nguyễn Thị H nhận quản lý sử dụng.
- Buộc bị cáo Ngô Văn P có nghĩa vụ bồi thường cho anh Lê Thiên P số tiền 21.500.000 đồng (Hai mốt triệu năm trăm ngàn đồng) - Buộc bị cáo Ngô Văn P có nghĩa vụ bồi thường cho bà Phạm Thị Kim Th số tiền 2.800.000đ (Hai triệu tám trăm ngàn đồng).
- Buộc bị cáo Ngô Văn P có nghĩa vụ bồi thường cho anh Lê Minh L số tiền 4.200.000 đồng (Bốn triệu hai trăm ngàn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi Hành án cho đến khi thi Hành án xong, bị cáo Ngô Văn P còn phải chịu tiền lãi của số tiền còn phải thi Hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.
[3] Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Bị cáo Ngô Văn P phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm và bị cáo phải chịu 1.425.000đ (Một triệu bốn trăm hai mươi lăm ngàn đồng) án phí DSST.
Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi Hành án theo quy định tại Điều 2 Luật THADS thì người được thi Hành án, người phải thi Hành án dân sự có quyền thoả thuận thi Hành án, quyền yêu cầu thi Hành án, tự nguyện thi Hành án hoặc bị cưỡng chế thi Hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7 và điều 9 Luật THADS; thời hiệu thi Hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 221/2022/HS-ST
Số hiệu: | 221/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về