Bản án về tội trộm cắp tài sản số 221/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 221/2022/HS-PT NGÀY 17/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2022, tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 220/2022/TLPT-HS ngày 30 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Trần Mạnh H. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 152/2022/HS-ST ngày 19 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương.

- Bị cáo có kháng cáo:

Trần Mạnh H sinh năm 1984 tại tỉnh V; nơi đăng ký thường trú: thôn 1 P, xã Y, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi đăng ký tạm trú: khu phố 5, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn S và bà Phan Thị T; có vợ và có 03 người con; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân:

- Ngày 16/4/2021, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai xử phạt 11 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 54/2021/HS-ST. Bị cáo kháng cáo bản án sơ thẩm. Tại Bản án phúc thẩm số 20/2022/HS-PT ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 54/2021/HS-ST của Tòa án nhân dân huyện T.

- Ngày 25/5/2021, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Đồng Nai xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 63/2021/HS-ST. Bị cáo kháng cáo bản án sơ thẩm. Tại Bản án phúc thẩm số 262/2021/HS-PT ngày 08/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai quyết định không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 63/2021/HS-ST của Tòa án nhân dân huyện X.

Từ tháng 6/2020 đến ngày 13/9/2020 có hành vi “Trộm cắp tài sản”, ngày 05/01/2021 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Bị cáo bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện X, tỉnh Đồng Nai bắt giữ người trong T hợp khẩn cấp và tạm giam từ ngày 11/9/2020.

Bị cáo đang chấp hành các bản án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai (B5) đến ngày 21/6/2022 Cơ quan quản lý tạm giữ tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai ra Quyết định số 553/QĐ-CAT-CQQLTG,TG điều chuyển bị cáo đến Nhà tạm giữ Công an thị xã T, tỉnh Bình Dương.

Ngoài ra, còn có 02 bị cáo; 06 bị hại; 01 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án do không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Văn H làm nghề lái xe thuê từ đầu năm 2000. Trong quá trình lái xe thuê, Nguyễn Văn H thường xuyên đi ngang các tuyến đường trên địa bàn thị xã T, tỉnh Bình Dương và nhìn thấy bò của người dân chăn thả ở các bãi đất trống không có người trông coi nên Nguyễn Văn H nảy sinh ý định trộm cắp bò mang bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định, Nguyễn Văn H rủ Trần Như T (là con riêng của bà Nguyễn Ngọc D, sống chung như vợ chồng với Nguyễn Văn H) cùng tham gia thì T đồng ý. Sau đó, Nguyễn Văn H gặp Trần Mạnh H là người chuyên mua trâu, bò sống để làm thịt rồi dùng xe ba gác bán dạo ở địa bàn thị xã T, Nguyễn Văn H hỏi Trần Mạnh H có mua bò sống rồi làm thịt bán không thì Trần Mạnh H đồng ý mua.

Tổng cộng Nguyễn Văn H và Trần Như T đã thực hiện 06 vụ trộm bò trên địa bàn thị xã T, Bình Dương và mang bán cho Trần Mạnh H, cụ thể như sau:

1. Vụ thứ nhất:

Khoảng 11 giờ ngày 11/6/2020, Nguyễn Văn H điểu khiển xe mô tô sirius biển số 93C1 – 341.79 đi lòng vòng qua nhiều tuyến đường trên địa bàn thị xã T, Bình Dương với mục đích tìm bò của người dân chăn thả không người trông coi để bắt trộm. Khi đi đến khu vực bãi đất trống gần cầu K thuộc khu phố K, phường T, thị xã T, Nguyễn Văn H nhìn thấy đàn bò của ông Nguyễn Thanh H (H1) đang chăn thả không người trông coi. Lúc này, Nguyễn Văn H nhìn thấy tờ giấy ghi số điện thoại xe chở thuê của ông Trần Thế T dán trên cột điện nên Nguyễn Văn H gọi điện cho ông T1 kêu đến địa điểm thuộc khu phố K, phường T để chở bò về địa bàn thành phố B, tình Đồng Nai thì ông T1 đồng ý. Sau đó ông T1 điều khiển xe ôtô biển số 60C - 281.22 đến địa điểm gần khu vực cầu K. Lúc này Nguyễn Văn H đi đến dắt trộm con bò giống cái, lông màu đỏ vàng, khoảng 02 năm tuổi, có 2 sừng dài 04cm, cao khoảng 1,3 mét, nặng khoảng 150 kg của ông H1 dẫn đến vị trí xe ô tô của ông T1 đang đậu cách đó khoảng 61 mét. Sau đó, Nguyễn Văn H cùng ông T1 đưa con bò lên xe ô tô rồi dẫn đường cho ông T1 điều khiển xe ôtô biển số 60C - 281.22 chở bò trộm cắp được chạy đến khu vực cầu Hóa An thành B, tỉnh Đồng Nai để bán bò cho Trần Mạnh H. Sau đó, Nguyễn Văn H trả tiền công vận chuyển cho ông T1 với số tiền 1.500.000 đồng rồi ông T1 điều khiển đi đâu thì Nguyễn Văn H không rõ. Sau đó, Nguyễn Văn H bán con bò vừa lấy trộm được của ông H1 cho Trần Mạnh H với giá 12.000.000 đồng.

Ngày 11/6/2021, ông H1 đến công an phường Khánh Bình, thị xã T trình báo sự việc. Công an phường Khánh Bình, thị xã T tiến hành lập hồ sơ ban đầu chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 341/KLTS-TTHS ngày 11/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã T, kết luận: 01 con bò giống cái, lông màu đỏ vàng, khoảng 02 năm tuổi, có 2 sừng dài 04cm, cao khoảng 1,3 mét, nặng khoảng 150 kg, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 34.340.000 đồng.

2. Vụ thứ hai:

Khoảng 10 giờ ngày 13/8/2020, Nguyễn Văn H rủ T đi lòng vòng qua nhiều tuyến đường trên địa bàn thị xã T, tỉnh Bình Dương tìm bò của người dân chăn thả không người trông coi để bắt trộm thì T đồng ý. Sau đó, Nguyễn Văn H điểu khiển xe mô tô sirius biển số 93C1 – 341.79 chở T đi từ phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương đến khu vực gần vườn tràm trên đường T 36 thuộc khu phố K, phường T, thị xã T thì Nguyễn Văn H nhìn thấy có đàn bò của ông Tống Văn S đang ăn cỏ tại đây nhưng không có người trông coi. Lúc này Nguyễn Văn H gọi điện thoại cho ông T1 kêu ông T1 điều khiển xe tải chở bò về B thì ông T1 đồng ý. Sau đó theo sự chỉ dẫn của Nguyễn Văn H, ông T1 điều khiển xe ôtô biển số 60C - 281.22 chạy đến đường T 36 thuộc khu phố S, phường T. Khi xe của ông T1 đến nơi, bị cáo T đứng cảnh giới còn Nguyễn Văn H đi đến khu vực đàn bò của ông S đang ăn cỏ dắt 01 con bò giống đực, lông màu vàng, khoảng 05 năm tuổi, có 2 sừng dài 20cm, cao khoảng 1,75 mét, nặng khoảng 500 kg lên xe của ông T1. Sau đó Nguyễn Văn H dẫn đường cho ông T1 điều khiển xe ôtô biển số 60C - 281.22 chở bò trộm cắp được chạy đến khu vực cầu Hóa An thành B, tỉnh Đồng Nai để bán bò cho Trần Mạnh H còn T điều khiển xe mô tô biển số 93C1 – 341.79 đi về nhà. Sau đó, Nguyễn Văn H trả tiền công vận chuyển cho ông T1 với số tiền 1.500.000 đồng rồi ông T1 điều khiển đi đâu thì Nguyễn Văn H không rõ. Sau đó Nguyễn Văn H bán con bò vừa lấy trộm được của ông S cho Trần Mạnh H với giá 15.000.000 đồng. Nguyễn Văn H chia cho T 500.000 đồng, số tiền còn lại thì Nguyễn Văn H giữ lại tiêu xài cá nhân.

Ngày 13/8/2021, ông S đến Công an phường T, thị xã T trình báo sự việc. Công an phường T, thị xã T tiến hành lập hồ sơ ban đầu chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 342/KLTS-TTHS ngày 11/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã T, kết luận: 01 con bò giống đực, lông màu vàng, khoảng 05 năm tuổi, có 02 sừng dài 20cm, cao khoảng 1,75 mét, nặng khoảng 500 kg, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 66.900.000 đồng.

3. Vụ thứ ba:

Khoảng 08 giờ 30 phút ngày 23/8/2020, Nguyễn Văn H rủ T đi lòng vòng qua nhiều tuyến đường trên địa bàn thị xã T, tỉnh Bình Dương tìm bò của người dân chăn thả không người trông coi để bắt trộm thì T đồng ý. Sau đó, Nguyễn Văn H điểu khiển xe mô tô sirius biển số 93C1 - 341.79 chở T đi từ khu phố P đến khu phố B thuộc phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì cả hai nhìn thấy 01 con bò giống cái, lông màu đỏ, 03 con bò khoảng năm tuổi, có 02 sừng dài 15cm, cao khoảng 1,5 mét, nặng khoảng 200kg của ông Đỗ Văn Q đang ăn cỏ tại đây nhưng không có người trông coi.

Lúc này Nguyễn Văn H gọi điện thoại cho ông T1 kêu ông T1 điều khiển xe tải chở bò về B thì ông T1 đồng ý. Sau đó theo sự chỉ dẫn của Nguyễn Văn H, ông T1 điều khiển xe ôtô biển số 60C - 281.22 chạy đến khu phố B thuộc phường T. Khi xe của ông T1 đến nơi, bị cáo T đứng cảnh giới còn Nguyễn Văn H đi đến dắt 01 con bò giống cái, lông màu đỏ, 03 khoảng năm tuổi, có 2 sừng dài 15cm, cao khoảng 1,5 mét, nặng khoảng 200kg lên xe của ông T1. Sau đó Nguyễn Văn H dẫn đường cho ông T1 điều khiển xe ôtô biển số 60C - 281.22 chở bò trộm cắp được chạy đến khu vực cầu Hóa An thành B, tỉnh Đồng Nai để bán bò cho Trần Mạnh H còn T điều khiển xe mô tô biển số 93C1 - 341.79 đi về nhà. Sau đó, Nguyễn Văn H trả tiền công vận chuyển cho ông T1 với số tiền 1.500.000 đồng rồi ông T1 điều khiển đi đâu thì Nguyễn Văn H không rõ. Sau đó Nguyễn Văn H bán con bò vừa lấy trộm được của ông Quí cho Trần Mạnh H với giá 11.000.000 đồng. Nguyễn Văn H chia cho T 500.000 đồng, số tiền còn lại Nguyễn Văn H giữ lại tiêu xài cá nhân.

Ngày 23/8/2021, ông Quí đến Công an phường T, thị xã T trình báo sự việc. Công an phường T, thị xã T tiến hành lập hồ sơ ban đầu chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 346/KLTS-TTHS ngày 13/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã T, kết luận: 01 con bò giống cái, lông màu đỏ, 03 khoảng năm tuổi, có 2 sừng dài 15cm, cao khoảng 1,5 mét, nặng khoảng 200kg, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 41.100.000 đồng.

4. Vụ thứ tư:

Khoảng 10 giờ ngày 25/8/2020, Nguyễn Văn H điều khiển xe ôtô tải biển số 62C - 028.97 chở T đi lòng vòng qua nhiều tuyến đường trên địa bàn thị xã T, tỉnh Bình Dương tìm bò của người dân chăn thả không người trông coi để bắt trộm. Khi đi đến bãi đất trống thuộc khu phố Tân Hội, phường Tân Hiệp, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì cả hai nhìn thấy đàn bò của ông Phan H1 An đang ăn cỏ tại đây nhưng không có người trông coi. Lúc này, T đứng cảnh giới còn Nguyễn Văn H đi đến dắt 01 con bò giống cái, lông màu vàng đậm, khoảng 4 năm tuổi, có 2 sừng dài 15 cm, cao khoảng 1,4 mét, cân nặng khoảng 250kg lên xe ôtô biển số 62C - 028.97. Sau đó Nguyễn Văn H điều khiển xe ôtô biển số 62C - 028.97chở T và con bò trộm cắp được chạy đến khu vực cầu H, tỉnh Đồng Nai để bán cho Trần Mạnh H với giá 12.000.000 đồng. Nguyễn Văn H chia cho T 500.000 đồng, số tiền còn lại thì Nguyễn Văn H giữ lại tiêu xài cá nhân.

Ngày 13/9/2021, ông An đến Công an phường T, thị xã T trình báo sự việc. Công an phường T, thị xã T tiến hành lập hồ sơ ban đầu chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 340/KLTS-TTHS ngày 11/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã T, kết luận: 01 con bò giống cái, lông màu vàng đậm, khoảng 4 năm tuổi, có 2 sừng dài 15 cm, cao khoảng 1,4 mét, cân nặng khoảng 250kg, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 47.900.000 đồng.

5. Vụ thứ năm:

Khoảng 10 giờ ngày 03/9/2020, Nguyễn Văn H điều khiển xe ôtô tải biển số 62C - 028.97 chở T đi lòng vòng qua nhiều tuyến đường trên địa bàn thị xã T, tỉnh Bình Dương tìm bò của người dân chăn thả không người trông coi để bắt trộm. Khi đi đến bãi đất trống thuộc khu phố B, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì cả hai nhìn thấy đàn bò của ông Nguyễn Phạm Thái H2 đang ăn cỏ tại đây nhưng không có người trông coi. Lúc này, T đứng cảnh giới còn Nguyễn Văn H đi đến dắt 01 con bò giống cái, lông màu vàng trắng (bò đạm), khoảng 03 năm tuổi, có 2 sừng dài 15 cm, cao khoảng 1,2 mét, cân nặng khoảng 300 kg lên xe ôtô biển số 62C - 028.97. Sau đó Nguyễn Văn H điều khiển xe ôtô biển số 62C - 028.97chở T và con bò trộm cắp được chạy đến khu vực cầu Hóa An thành B, tỉnh Đồng Nai để bán cho Trần Mạnh H với giá 12.000.000 đồng. Nguyễn Văn H chia cho T 500.000 đồng, số tiền còn lại Nguyễn Văn H giữ lại tiêu xài cá nhân.

Ngày 13/9/2021, ông H2 đến Công an phường T, thị xã T trình báo sự việc. Công an phường T, thị xã T tiến hành lập hồ sơ ban đầu chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 340/KLTS-TTHS ngày 11/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã T, kết luận: 01 con bò giống cái, lông màu vàng trắng (bò đạm), khoảng 03 năm tuổi, có 2 sừng dài 15 cm, cao khoảng 1,2 mét, cân nặng khoảng 300 kg, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 54.680.000 đồng.

6. Vụ thứ sáu:

Khoảng 10 giờ ngày 05/9/2020, Nguyễn Văn H điều khiển xe ôtô tải biển số 62C - 028.97 chở T đi lòng vòng qua nhiều tuyến đường trên địa bàn thị xã T, tỉnh Bình Dương tìm bò của người dân chăn thả không người trông coi để bắt trộm. Khi đi đến bãi đất trống thuộc khu phố 2, phường V, thị xã T, tỉnh Bình Dương thì cả hai nhìn thấy đàn bò của ông Nguyễn Văn T2 đang ăn cỏ tại đây nhưng không có người trông coi. Lúc này, T đứng cảnh giới còn Nguyễn Văn H đi đến dắt 01 con bò giống cái, giống cái, lông màu vàng sậm, khoảng 06 năm tuổi, có 2 sừng dài 05cm, cao khoảng 1,2 mét, nặng khoảng 300 kg lên xe ôtô biển số 62C - 028.97. Sau đó Nguyễn Văn H điều khiển xe ôtô biển số 62C - 028.97chở T và con bò trộm cắp được chạy đến khu vực cầu H, tỉnh Đồng Nai để bán cho Trần Mạnh H với giá 12.000.000 đồng. Nguyễn Văn H chia cho T 500.000 đồng, số tiền còn lại Nguyễn Văn H giữ lại tiêu xài cá nhân.

Ngày 05/9/2021, ông T2 đến Công an phường V, thị xã T trình báo sự việc. Công an phường V, thị xã T tiến hành lập hồ sơ ban đầu chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T thụ lý theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 345/KLTS-TTHS ngày 13/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã T, kết luận: 01 con bò giống cái, giống cái, lông màu vàng sậm, khoảng 06 năm tuổi, có 2 sừng dài 05cm, cao khoảng 1,2 mét, nặng khoảng 300 kg, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị là 54.680.000 đồng.

Như vậy, bị cáo Nguyễn Văn H cùng đồng phạm đã trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tổng cộng 06 con bò của các bị hại là ông H1, S, Q, A, H1, T2 với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 299.600.000 đồng. Bị cáo Trần Như T cùng đồng phạm đã trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tổng cộng 05 con bò của các ông S, Q, A, H1, T2 với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 265.260.000 đồng. Bị cáo Trần Mạnh H biết rõ 06 con bò của bị cáo Nguyễn Văn H mang đến bán cho bị cáo là tài sản trộm cắp nhưng đã hứa hẹn và đồng ý mua tổng cộng 06 con bò mà bị cáo Nguyễn Văn H trộm cắp của ông H1, S, Q, A, H1, T2 với tổng trị giá tài sản chiếm đoạt là 299.600.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 152/2022/HS-ST ngày 19 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương, đã quyết định:

Về trách nhiệm hình sự: tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn H, Trần Mạnh H và Trần Như T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 173; điểm b khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 38, Điều 56 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Mạnh H 08 (tám) năm tù;

tổng hợp với hình phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 262/2021/HS-PT ngày 08/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; 11 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 20/2021/HS-PT ngày 12/1/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; buộc bị cáo Trần Mạnh H phải chấp hành hình phạt chung là 16 (mười sáu) năm 05 (năm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/9/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 09 (chín) năm tù; tổng hợp với hình phạt 08 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 63/2021/HS-ST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Đồng Nai; 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 54/2021/HS-ST ngày 16/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai; 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 21/2022/HS-ST ngày 14/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Bình Phước; buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chấp hành hình phạt chung là 22 (Hai mươi hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/9/2020; xử phạt bị cáo Trần Như T 05 (năm) năm tù; tổng hợp với hình phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 63/2021/HS-ST ngày 25/5/2021 của Tòa án nhân dân huyện X, tỉnh Đồng Nai; 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 54/2021/HS-ST ngày 16/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai; 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 21/2022/HS-ST ngày 14/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước; buộc bị cáo Trần Như T phải chấp hành hình phạt chung là 12 (Mười hai) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/9/2020; tuyên về biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 25 tháng 7 năm 2022, bị cáo Trần Mạnh H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến: tội danh, điều khoản mà Tòa án cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo phạm tội có tính chất chuyên nghiệp nhưng trong hồ sơ vụ án không chứng minh được tính chuyên nghiệp nên việc áp dụng điểm b khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự của cấp sơ thẩm là không đúng quy định của pháp luật. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới, mức hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tham gia tranh luận gì thêm.

Bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về chăm lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo thực hiện trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, lời khai của bị cáo thống nhất với nội dung vụ án đã nêu trên, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã đủ cơ sở kết luận: trong khoảng thời gian từ ngày 11/6/2020 đến ngày 05/9/2020 trên địa bàn thuộc các phường T, T, T, V, thị xã T, tỉnh Bình Dương các bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Như T đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản là những con bò của các bị hại để trộm cắp bán lấy tiền tiêu xài; bị cáo Trần Mạnh H biết rõ các con bò do bị cáo Nguyễn Văn H và Trần Như T trộm cắp nhưng vẫn giúp sức tích cực trong việc mua, giết mổ để bán nhằm mục đích tư lợi bất chính.

[3] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương; bị cáo nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, thể hiện ý thức xem thường pháp luật và bất chấp hậu quả, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm mà bị cáo đã thực hiện; 06 vụ trộm bò mà các bị cáo thực hiện có tổng giá trị là 299.600.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết bị cáo phạm tội có tính chất chuyên nghiệp theo điểm b, khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Xét thấy, trong toàn bộ hồ sơ vụ án, các cơ quan tố tụng cấp sơ thẩm chưa chứng minh được bị cáo lấy nguồn thu lợi bất chính từ việc trộm cắp làm nguồn sống chính. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng đối với bị cáo là phạm tội có tính chất chuyên nghiệp là không đúng với quy định của pháp luật.

[4] Xét kháng cáo của bị cáo Trần Mạnh H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm được tình tiết giảm nhẹ mới. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Trần Mạnh H quanh co không thừa nhận hành vi đồng phạm trong việc mua 01 con bò đực của bị hại Tống Văn S bị trộm cắp ngày 13/8/2020. Tuy nhiên, căn cứ các chứng cứ tài liệu được thu thập trong quá trình điều tra, lời khai của các bị cáo, bị hại, người làm chứng và việc đối chất trực tiếp đã chứng minh được hành vi này của bị cáo Trần Mạnh H; xét thấy mức hình phạt 08 (tám) năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, kháng cáo của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt là không có cơ sở chấp nhận.

[5] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo là phù hợp.

[6] Án phí hình sự phúc thẩm: do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[7] Các phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự,

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Mạnh H. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 152/2022/HS-ST ngày 19 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã T, tỉnh Bình Dương;

Về trách nhiệm hình sự: tuyên bố bị cáo Trần Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; Điều 17, Điều 38, Điều 56 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Mạnh H 08 (tám) năm tù; tổng hợp với hình phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 262/2021/HS-PT ngày 08/11/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; 11 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 20/2022/HS-PT ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai; buộc bị cáo Trần Mạnh H phải chấp hành hình phạt chung là 16 (mười sáu) năm 05 (năm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/9/2020.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Trần Mạnh H phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 221/2022/HS-PT

Số hiệu:221/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về