Bản án về tội trộm cắp tài sản số 220/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀNG MAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 220/2023/HS-ST NGÀY 14/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 9 năm 2023, tại các điểm cầu: Trụ sở Tòa án nhân dân dân Thành phố Hà Nội (Điểm cầu trung tâm) và Trại Tạm giam số 1 Công an Thành phố Hà Nội (Điểm cầu thành phần) mở phiên tòa công khai trực tuyến xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 226/2023/HSST ngày 21 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 225/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:

Cao Triều Đ, sinh ngày 23 tháng 8 năm 1998; nơi cư trú: Tổ 23A, phường Phương L, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông: Cao Văn C và bà Phạm Thu H (đều đã chết); vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/6/2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2 Công an Thành phố Hà Nội. Có mặt.

Người bị hại: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1968; cư trú tại: số nhà 56, đường 3.3 Khu đô thị G, phường Trần P, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Xuân H, sinh năm 2000; Cư trú tại: số 106C ngõ Gốc Đ, phường Hoàng Văn T, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Cao Triều Đ làm nghề vận chuyển giao hàng tự do và đã có một số lần đến giao hàng tại khu đô thị G thấy ban ngày vắng người, trong khu không có người bảo vệ nên nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Khoảng 12 giờ ngày 14/6/2023, Đ một mình điều khiển xe máy nhãn hiệu Wave màu xanh đen biển kiểm soát 29L5-X, phía sau xe có buộc giỏ chở hàng và nói dối là vào giao hàng để đi qua cổng bảo vệ của khu đô thị trên. Khi đi đến nhà ông Nguyễn Văn H sinh năm 1968, ở số nhà 56, đường 3.3 trong khu đô thị G, Đ quan sát thấy có chốt cửa cổng nhưng không khóa, ngõ cụt không có người qua lại nên dựng xe máy ở góc đường rồi mở chốt cổng đi vào trong, tiếp tục quan sát Đ thấy đằng sau nhà có cây khế dựa vào ban công tầng 2, Đ liền trèo lên ban công vào phòng ngủ tầng 2 và theo cầu thang xuống tầng 1, nhưng đều không thấy tài sản có giá trị để trộm cắp. Đ đi vòng ra sau bếp tầng 1 thì nhìn thấy cửa đi ra sau nhà, chìa khóa vẫn cắm tại ổ khóa nên Đ đã vặn khóa mở cửa ra sẵn để nếu có người thì sẽ chạy thoát. Tiếp đó, Đ đi lên tầng 3 thì nhìn thấy 01 bộ máy tính để bàn, Đ tháo dây điện, dây nguồn rồi đem 01 màn hình máy tính, 01 cây máy tính, 01 tai nghe, 01 bàn phím, chuột và dây nguồn xuống đi qua cửa phòng bếp đi ra ngoài cất giấu vào thùng đựng đồ giao hàng buộc sau xe máy, phủ áo mưa lên trên giỏ hàng rồi điều khiển xe ra ngoài khu đô thị. Sau khi chiếm đoạt được số tài sản trên, Đ chở đến cửa hàng kinh doanh buôn bán thiết bị điện tử, máy tính cũ và mới tại số 109 phố Lê Thanh Ng, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, nói là tài sản của bản thân không có nhu cầu sử dụng nữa để chào bán. Do tin tưởng vào lời giới thiệu của Đ, chủ cửa hàng là anh Trần Xuân H (sinh năm 2000; Chỗ ở: Số 106C ngõ Gốc Đ, phường Hoàng Văn T, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội) đã đồng ý mua số tài sản trên với giá 6.000.000 đồng. Số tiền nêu trên, Đ đã chi tiêu cá nhân còn lại 200.000 đồng đã bị cơ quan điều tra thu giữ.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ông Nguyễn Văn H đã có đơn trình báo đến cơ quan công an. Qua rà soát đối tượng nghi vấn của lực lượng công an, ngày 16/6/2023, Cao Triều Đ đã xin đầu thú, khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.

Vật chứng vụ án đã thu giữ gồm:

- Thu do Cao Triều Đ tự giác giao nộp: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave Alpha màu xanh đen bạc mang biển kiểm soát 29L5-X; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc số 042995 mang tên Nguyễn Văn S; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi K30 màu xanh Imei 1: 99001596096596, Imei 2: 865337041932088; 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia màu đen Imei 1: 35844058312806, Imei 2: 358144058312814 và số tiền 200.000 đồng (Xe máy và 02 điện thoại đều đã qua sử dụng).

- Thu do anh Trần Xuân H tự giác giao nộp: 01 màn hình máy tính nhãn hiệu DELL 27 Inhch; 01 tai nghe nhãn hiệu Hyper X; 01 cây máy tính CPU Core I7-10700; Memory: 16 GB Ram; card màn hình GTX 1660; ổ cứng SSD 256; HDD Toshiba MQ01ABD100 dung lượng 1TB; 01 bàn phím máy tính nhãn hiệu Dareu model EK1280; 01 chuột máy tính nhãn hiệu Fuhlen G90 Problack (Các tài sản trên đều đã qua sử dụng).

Ngoài ra, anh Trần Xuân H còn cung cấp 01 USB lưu giữ đoạn hình ảnh do máy ghi hình an ninh tại cửa hàng của anh H ghi lại quá trình giao dịch mua bán các tài sản trên giữa anh H và Đ.

Cơ quan điều tra đã yêu cầu định giá đối với vật chứng là tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án. Tại Kết luận định giá tài sản số 175/KL-HĐ ĐGTS ngày 18/7/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự quận Hoàng Mai kết luận: Tổng cộng trị giá số tài sản bị chiếm đoạt (đều đã qua sử dụng) là 11.450.000 đồng, gồm: 01 màn hình máy tính nhãn hiệu Dell E2720HS (CR3Y31) 27 inhch trị giá 3.000.000 đồng; 01 cây máy tính xigmatek 17 ram 16Gb, ổ cứng 256 + 1T, card 1660 super trị giá 8.000.000 đồng; 01 bàn phím nhãn hiệu dareu model EK1280 trị giá 200.000 đồng; 01 chuột có dây model G90 trị giá 100.000 đồng; 01 tai nghe máy tính nhãn hiệu hyper trị giá 150.000 đồng.

Quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại người bị hại là ông Nguyễn Văn H toàn bộ số tài sản bị chiếm đoạt đã thu giữ nêu trên. Sau khi nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, ông H không yêu cầu bồi thường thêm khoản nào khác.

Chiếc xe máy và giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn S đã thu giữ nêu trên, kết quả xác minh người đứng tên đăng ký sở hữu xe trên là anh Nguyễn Văn S sinh năm 1992, trú tại Tổ Trù 2, phường Cổ N 2, quận Bắc Từ Liêm, Thành phố Hà Nội. Anh S trình bày đã mua, đăng ký sở hữu xe trên và đã bán cho anh Cao Triều D sinh năm 1993, trú tại Tổ 23A, phường Phương L, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội (là anh ruột của Cao Triều Đ). Kết luận giám định số khung và số máy xe trên là số nguyên thủy. Anh D trình bày khi mua xe máy trên của anh S, hai bên có lập hợp đồng mua bán viết tay nhưng đã làm mất giấy trên và do không có nhu cầu sử dụng nên anh D đã giao xe trên cho Đ để đi giao hàng nhưng không biết Đ sử dụng làm phương tiện để trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra không chứng minh được anh S và anh D có hành vi vi phạm liên quan đến vụ án nên không có cơ sở để đề cập xử lý. Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại anh D chiếc xe máy đã thu giữ nêu trên.

Tại Cáo trạng số 221/CT-VKS-HM ngày 17 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội đã truy tố Cao Triều Đ về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố.

Người bị hại có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và giữ nguyên lời khai đã khai tại Cơ quan Điều tra.

Người có quyền lợi nghĩa vụ, liên quan có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và giữ nguyên lời khai đã khai tại Cơ quan Điều tra, không đề nghị bị cáo Cao Triều Đ phải hoàn trả lại số tiền 6.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội sau khi luận tội, vẫn giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Cao Triều Đ từ 08 đến 12 tháng tù; Về hình phạt bổ sung: không đề nghị áp dụng; Về trách nhiệm dân sự: bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường; buộc bị cáo phải truy nộp số tiền 5.800.000 đồng cùng với số tiền 200.000 đồng đã thu giữ của bị cáo để sung ngân sách nhà nước; Về vật chứng: đề nghị trả lại cho bị cáo 02 chiếc điện thoại nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của hành vi quyết định tố tụng: Về hành vi quyết định tố tụng của Điều tra viên - Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, Kiểm sát viên - Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó hành vi quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

Về sự vắng mặt của người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Xét thấy, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ và đều đã có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa và các đương sự đã có lời khai đầy đủ tại Cơ quan Điều tra. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng Hình sự tiến hành xét xử vắng mặt bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, nên có căn cứ xác định:

Khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 14/6/2023, tại số nhà 56, đường 3.3, khu đô thị G, phường Trần P, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội, lợi dụng sơ hở của chủ nhà lúc vắng nhà, Cao Triều Đ đã có hành vi lén lút bí mật chiếm đoạt của ông Nguyễn Văn H số tài sản có tổng cộng trị giá 11.450.000 đồng, gồm: 01 màn hình máy tính trị giá 3.000.000 đồng; 01 cây máy tính trị giá 8.000.000 đồng; 01 bàn phím máy tính trị giá 200.000 đồng; 01 chuột máy tính có dây trị giá 100.000 đồng; 01 tai nghe máy tính trị giá 150.000 đồng.

Vì vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Cao Triều Đ về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[3]. Hành vi đột nhập vào nhà người khác để lén lút lấy tài sản của bị cáo là rất liều lĩnh, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, phải áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cũng xét: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được trả lại cho người bị hại; nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và sau khi phạm tội, bị cáo đầu thú là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử thấy có căn cứ chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát, xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, tạo điều kiện cho bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với cộng đồng cũng đủ giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5]. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được Cơ quan Điều tra giao trả lại cho người bị hại là ông Nguyễn Văn H và ông H không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.

- Đối với số tiền 6.000.000 đồng: anh Trần Xuân H không yêu cầu bị cáo phải bồi thường cho anh số tiền này. Tuy nhiên, đây là tiền do bị cáo phạm tội mà có; do đó, cần buộc bị cáo phải nộp lại để sung ngân sách nhà nước: bị cáo đã bị thu giữ số tiền 200.000 đồng, số tiền bị cáo còn phải nộp là 5.800.000 đồng.

- Đối với 02 chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo: đây là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội. Do đó, trả lại cho bị cáo, tuy nhiên tiếp tục tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

[7]. Các vấn đề khác: Đối với chiếc xe máy bị cáo dùng vào việc phạm tội: Chiếc xe máy và giấy chứng nhận đăng ký xe mang tên Nguyễn Văn S. Kết luận giám định số khung và số máy xe trên là số nguyên thủy. Cơ quan điều tra đã xác minh, làm rõ chiếc xe máy hiện thuộc sở hữu của anh Cao Triều D sinh năm 1993, trú tại Tổ 23A, phường Phương L, quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội (là anh ruột của Cao Triều Đ). Anh D đã giao xe trên cho Đ để đi giao hàng nhưng không biết Đ sử dụng làm phương tiện để trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra không chứng minh được anh S và anh D có hành vi vi phạm liên quan đến vụ án nên không có cơ sở để đề cập xử lý. Cơ quan điều tra đã quyết định xử lý vật chứng, trả lại anh D chiếc xe máy đã thu giữ nêu trên là phù hợp. [8]. Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: các điều 45, 46, 260, 268, 269, 299, khoản 1 Điều 292, Điều 326 và Điều 327 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

2. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Cao Triều Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

3. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự: xử phạt Cao Triều Đ 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/6/2023.

4. Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46,47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

- Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được Cơ quan Điều tra giao trả lại cho người bị hại là ông Nguyễn Văn H và ông H không có yêu cầu gì thêm nên không xét.

- Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 6.000.000 đồng để sung ngân sách nhà nước: bị cáo đã bị thu giữ số tiền 200.000 đồng, số tiền bị cáo còn phải nộp là 5.800.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo 02 chiếc điện thoại, tuy nhiên tiếp tục tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng nêu trên có tình trạng, đặc điểm theo như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/8/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội và Giấy nộp tiền vào Kho bạc Nhà nước Hoàng Mai ngày 07/8/2023, số tiền 200.000 đồng).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Cao Triều Đ phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

33
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 220/2023/HS-ST

Số hiệu:220/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàng Mai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về