TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 217/2022/HS-PT NGÀY 15/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 9 năm 2022, tại Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 221/2022/TLPT-HS ngày 30 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo La Văn Hằng do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 160/2022/HS-ST ngày 27/7/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
Bị cáo có kháng cáo: La Văn H, sinh năm 1992 tại Nghệ An; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn Y, xã L, huyện C, tỉnh Nghệ An; tạm trú: phòng số 06, khu dân cư P, đường số 6, khu phố Ô, phường T, thị xã T, tỉnh Bình Dương; dân tộc: Thái; tôn giáo: không; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 9/12; con ông La Văn S và bà Lô Thị Y có vợ tên Vi Thị T, sinh năm 2002 và 01 con sinh năm 2022; tiền sự, tiền án: không; bị cáo tại ngoại, có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đỗ Thanh Vũ, là Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Dương, có mặt.
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại nhưng không kháng cáo và không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
La Văn H làm công nhân tại Công ty Toàn Phát có địa chỉ tại phường An Phú, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Khoảng 20 giờ ngày 08/10/2021, H điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki Raider, biển số 37C1-173.90 lưu thông trên đường ĐT747B đến khu vực Văn phòng khu phố Khánh Long thuộc phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thì gặp chốt kiểm soát, phòng chống dịch bệnh Covid-19 số 03 do Ủy ban nhân dân thị xã Tân Uyên thành lập. Ông Võ Minh Đ là cán bộ thuộc Đội Cảnh sát giao thông, trật tự Công an thị xã Tân Uyên làm tổ trưởng, đang làm nhiệm vụ trực tại chốt số 03 ra hiệu lệnh La Văn H dừng phương tiện để kiểm tra, phát hiện H đã sử dụng rượu bia nên dùng máy đo nồng độ cồn trong hơi thở của H. Kết quả đo, nồng độ cồn trong hơi thở của Hằng là 1.083mg/l nên đã vi phạm quy định tại điểm e khoản 8 Điều 6 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt. Ông Đ tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính và biên bản tạm giữ xe mô tô biển số 37C1-173.90 cùng giấy phép lái xe hạng A1 của H theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 82 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 của Chính phủ. H đã đọc biên bản, công nhận là đúng, ký tên xác nhận. Ông Đ đã giao cho H 02 biên bản vừa lập cùng chìa khóa xe mô tô để H cất giữ, đồng thời ông Đ yêu cầu ông Đỗ Trần Q là lực lượng Cảnh sát 113 bán chuyên trách Công an thị xã Tân Uyên được phân công làm nhiệm vụ trực chốt số 03 đưa xe mô tô biển số 37C1- 173.90 vào khu vực tạm giữ phương tiện tạm thời của chốt số 03 tại khuôn viên sân nhà ông Phan Văn T cách chốt số 03 khoảng 05 mét. Sau khi đưa xe vào điểm tạm giữ tạm thời và kéo hàng rào làm bằng lưới B40 lại, ông Q đi đến khu vực chốt số 03 tiếp tục làm nhiệm vụ. Sau khi bị lập biên bản xử phạt vi phạm hành chính và tạm giữ phương tiện, H đi ra cách chốt số 03 khoảng 05 mét, quan sát thấy lực lượng kiểm soát đưa xe mô tô biển số 37C1-173.90 vào khu vực tạm giữ và lực lượng trực chốt đang tập trung làm nhiệm vụ kiểm soát các phương tiện lưu thông trên đường, không có người trông coi trực tiếp tại điểm tạm giữ phương tiện vi phạm tạm thời. H nảy sinh ý định lợi dụng trời tối, lén lút lấy xe mô tô biển số 37C1-173.90 để đem về tiếp tục sử dụng làm phương tiện đi lại. H đi vào chỗ giữ xe, nhanh chóng đẩy xe mô tô biển số 37C1-173.90 ra đường, cắm chìa khóa xe vào ổ khóa khởi động xe chạy về nhà trọ. Lúc này, lực lượng đang làm nhiệm vụ trực tại chốt số 03 gồm các ông Đ, ông Q, ông Nguyễn Châu D, ông Nguyễn Văn T, ông Thân Văn A phát hiện, truy đuổi H đến nhà trọ của H thuộc khu dân cư P, khu phố Ô, phường T, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương thì bắt giữ được H và bàn giao cho Công an phường Tân Phước Khánh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ tài liệu, đồ vật gồm: 01 xe mô tô hiệu Suzuki Raider, biển số 37C1-173.90; 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô biển số 37C1-173.90; 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1 tên La Văn H và 01 giấy chứng minh nhân dân tên La Văn H.
Tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 158/KLTS- TTHS ngày 26/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thị xã Tân Uyên, kết luận: xe mô tô hiệu Suzuki Raider, biển số 37C1-173.90, đã qua sử dụng, tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị 37.600.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 160/2022/HS-ST ngày 27/7/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo La Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo La Văn H 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại.
Ngày 01/8/2022, bị cáo La Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương tham gia phiên toa trình bày quan điểm giải quyết vụ án:
Đơn kháng cáo của bị cáo trong hạn luật định, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thụ lý và đưa vụ án ra xét xử theo trình tự phúc thẩm là đúng theo quy định tại các Điều 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản án sơ thẩm xác định, nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo La Văn H là có căn cứ và đúng pháp luật, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cung cấp tình tiết giảm nhẹ mới nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 09 tháng tù là phù hợp nên không có căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
Đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự giữ nguyên hình phạt theo Bản án hình sự sơ thẩm số 160/2022/HS-ST ngày 27/7/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đối với bị cáo La Văn H.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Bị cáo có ông nội là người có công với Nhà nước, bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Tại phần tranh luận và trong lời nói sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra và tại phiên tòa như Tòa án cấp sơ thẩm nhận định là đúng, bị cáo kháng cáo trong thời hạn theo quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Về nội dung:
Khoảng 20 giờ ngày 08/10/2021, bị cáo H điều khiển xe mô tô hiệu Suzuki Raider, biển số 37C1-173.90 lưu thông trên đường ĐT747B đến khu vực Văn phòng khu phố Khánh Long thuộc phường Tân Phước Khánh, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương nhưng do vi phạm nồng độ cồn khi tham gia giao thông nên bị Công an thị xã Tân Uyên trực tại chốt phòng chống dịch bệnh Covid-19 trên đường ĐT 747B, tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính và biên bản tạm giữ xe mô tô biển số 37C1-173.90. Lợi dụng sơ hở của lực lượng kiểm soát, phòng chống dịch bệnh Covid-19, bị cáo đã lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt xe mô tô biển số 37 C1 -173.90 là phương tiện thuộc quyền sở hữu của mình thì bắt phạm tội quả tang.
Hành vi của bị cáo La Văn H đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Hằng về tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mặc dù tài sản chiếm đoạt là quyền sở hữu của bị cáo nhưng do bị cáo vi phạm pháp luật bị cơ quan có thẩm quyền tạm giữ và quản lý xe nhưng bị cáo lại thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt lại xe là thể hiện coi thường pháp luật, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng muốn lấy lại xe của mình đã bị cơ quan có thẩm quyền tạm giữ nên đã cố ý phạm tội. Bị cáo kháng cáo và cung cấp tài liệu chứng minh bị cáo có ông nội là người có công với Nhà nước. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đánh giá tính chất hành vi phạm tội của bị cáo và quyết định xử phạt bị cáo 09 (chín) tháng tù là phù hợp với hành vi bị cáo đã thực hiện, nên Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo của bị cáo.
[4] Quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương về áp dụng hình phạt đối với bị cáo là phù hợp với hành vi bị cáo đã thực hiện nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Phần trình bày của người bào chữa là không có căn cứ nên không chấp nhận.
[6] Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
[7] Án phí phúc thẩm: bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo La Văn H.
2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 160/2022/HS-ST ngày 27/7/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương về hình phạt đối với bị cáo La Văn H.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố bị cáo La Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo La Văn H 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án.
3. Về án phí:
Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;
Bị cáo La Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 217/2022/HS-PT
Số hiệu: | 217/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về