Bản án về tội trộm cắp tài sản số 217/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 217/2021/HS-ST NGÀY 21/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 7 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:185/2021/TLST - HS, ngày 29 tháng 6 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 202/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đoàn Xuân B - Sinh ngày 02 tháng 01 năm 2002, tại tỉnh Đắk Lắk.

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn M, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư trú: Không nơi ở nhất định.

Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính:

Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đoàn Văn N; Con bà:

Nguyễn Thị H (đã chết); Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Không. Tiền sự: Có 01 tiền sự, 19/8/2020 bị Công an huyện C, tỉnh Đắk Lắk, ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản bằng hình thức phạt tiền. Ngày 06/11/2020 chấp hành xong biện pháp hành chính.

Nhân thân: Ngày 26/4/2019 bị Công an thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, ra Quyết định xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản bằng hình thức phạt tiền Tại bản án số 51/2019/HS-ST Ngày 27/9/2019 của Tòa án nhân dân huyện C, xử phạt Đoàn Xuân B 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” Bị cáo bị bắt ngày 19 tháng 5 năm 2021.

- Người bị hại: Lê Xuân H - Sinh năm: 1986 Cư trú tại: Số nhà B, đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk – Vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Lê Quang V - Sinh năm: 1977 Cư trú tại: Số nhà T, đường C, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk – Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 03 giờ sáng ngày 08/12/2020, Đoàn Xuân B đi đến hẻm số 325/5, đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk thấy ngôi nhà của anh Lê Xuân H đang xây dựng, cổng nhà được rào bằng lưới B40 trong sân nhà có 01 lán trại không có cửa nên B đột nhập vào trong lén lút lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động, hiệu SamSung Galaxy A51, màu trắng, dung lượng 128 GB, của anh H đang cắm sạc, rồi tẩu thoát. Đến khoảng 08 giờ cùng ngày, B đem chiếc điện thoại trộm cắp được đến tiệm mua bán và sửa chữa điện thoại T, địa chỉ: Đường L, phường T, thành phố B, bán cho anh Lê Quang V (là chủ quản lý), với số tiền 1.200.000 đồng. Sau khi mua điện thoại do B trộm cắp, anh V đã bán cho một người nam giới (chưa rõ nhân thân, lai lịch) được số tiền 2.000.000 đồng. Anh Lê Xuân H bị mất tài sản nên làm đơn trình báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 32/KL-HĐĐGTS ngày 24/02/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố B, kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy A51, dung lượng 128 GB, số Imei: 352353112518243, trị giá 4.200.000 đồng.

Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của bị cáo đúng như nội dung trên và không có ý kiến gì.

Tại bản cáo trạng số: 223/CT-VKS-HS ngày 29/6/2021 Viện kiểm sát nhân dân thanh phô Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk đã truy tố bị cáo Đoàn Xuân B về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bô luât hinh sư.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột sau khi phân tích đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo Đoàn Xuân B và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đoàn Xuân B theo bản cáo trạng số 223/CT-VKS-HS ngày 29/6/2021 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đoàn Xuân B từ 09 (Chín) tháng tù đến 12 (Mười hai) tháng tù.

Các biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điêu 46, Điều 48 Bô luât hinh sư ; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Đoàn Xuân B phải bồi thường cho anh Lê Xuân H số tiền 4.200.000 đồng

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét quá trình điều tra, truy tố. Điều tra viên đã thi hành các quyết định tố tụng, tiến hành truy tìm, thu thập vật chứng, khám nghiệm hiện trường cũng như lấy lời khai của bị cáo và các đương sự khác liên quan trong vụ án là đảm bảo đúng theo trình tự quy định của pháp luật. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử kiểm sát viên đã thực hiện việc kiểm sát hoạt động tố tụng đúng theo quy định của pháp luật nên bị cáo không có ý kiến gì hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng

[2] Lời khai nhận của bị cáo Đoàn Xuân B tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với các tài liệu thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Vào khoảng 03 giờ sáng ngày 08/12/2020, bị cáo Đoàn Xuân B đi đến hẻm số 325/5, đường H, phường T, thành phố B, tỉnh Đăk Lăk bị cáo đã lén lút lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy A51, dung lượng 128 GB, trị giá 4.200.000 đồng của anh Lê Xuân H là phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Điều 173 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3] Xét thấy, bị cáo nhận thức được rằng tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi chiếm đoạt tài sản trái pháp luật đều bị trừng trị thích đáng. Mặc dù tuổi đời còn non trẻ nhưng bị cáo đã sớm ham chơi, đua đòi muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của anh Lê Xuân H. Bị cáo là người có một tiền sự về hành vi trộm cắp và là người có nhân thân xấu, nên đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải xử lý nghiêm minh nhằm cải tạo giáo dục đối với bị cáo đồng thời răn đe phòng chống tội phạm chung trong toan xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tình tiết giảm nhẹ: Sau khi phạm tội bị cáo đã khai báo thành khẩn hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Đây là tình tiết giảm nhẹ hình phạt được quy định tại các điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên được áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đối với anh Lê Quang V là người đã mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy A51. Quá trình điều tra xác định: Anh V không biết chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy A51 là tài sản do Đoàn Xuân B phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, không đề cập xử lý là phù hợp.

Đối với: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galaxy A51, Cơ quan điều tra chưa thu giữ được và người nam giới mua chiếc điện thoại chưa rõ nhân thân lai lịch. Cơ quan điều tra tách ra khỏi vụ án để tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý theo quy định của pháp luật.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Tại cơ quan điều tra anh Lê Xuân H yêu cầu bị cáo Đoàn Xuân B phải bồi thường số tiền 4.200.000 đồng (là trị giá chiếc điện thoại bị trộm cắp, Cơ quan điều tra chưa thu giữ được). Xét yêu cầu của anh Lê Xuân H là có căn cứ nên buộc bị cáo phải bồi thường.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Đoàn Xuân B phạm tội: “Trộm cắp tài sản” Xử phạt: Bị cáo Đoàn Xuân B 01 (Một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt ngày 19 tháng 5 năm 2021.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Đoàn Xuân B phải bồi thường cho anh Lê Xuân H số tiền 4.200.000 đồng Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Về án phí: Áp dụng Điều 135 của Bộ luật tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Đoàn Xuân B phải nộp 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 217/2021/HS-ST

Số hiệu:217/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về