Bản án về tội trộm cắp tài sản số 216/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 216/2022/HS-ST NGÀY 17/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 11 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 227/2022/TLST-HS, ngày 28 tháng 10 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 240/2022/QĐXXST-HS, ngày 04 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Minh H (tên gọi khác: Trắng); Giới tính: Nam; Sinh năm 1986 tại tỉnh Tiền Giang; Nơi thường trú: xã K, huyện G, tỉnh Tiền Giang; Nơi cư trú: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Minh L và bà Nguyễn Thị Kim L; Bị cáo có vợ và 01 con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 16/01/2006, bị Tòa án nhân dân huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang xử phạt 01 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Bản án số 01/2006/HS- ST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/9/2006. Đã đóng án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm.

- Ngày 16/9/2008, bị Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 106/2008/HS-ST. Đã đóng án phí hình sự sơ thẩm ngày 03/11/2008.

- Ngày 31/12/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, tổng hợp với hình phạt 04 năm tù của Bản án số 106/2008/HS-ST ngày 16/9/2008, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 07 năm tù theo Bản án số 286/2008/HS-ST. Ngày 04/01/2014, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Đã đóng án phí hình sự sơ thẩm ngày 19/02/2009.

- Ngày 26/6/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng theo Quyết định số 279/QĐ-TA. Bị cáo chấp hành xong quyết định ngày 30/9/2019.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 20/7/2022. (có mặt)

* Bị hại: Ông Lý Sẹc T, sinh năm 1986; Nơi thường trú: Tổ 1, Ấp 5, xã X, huyện C, tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: Ấp 6, xã H, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Ấp 6, xã H, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

2/ Ông Phương Trần Thái B, sinh năm 1995; Nơi cư trú: Khu phố 4, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

3/ Ông Phan Thanh G, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Khu phố 4, thị trấn T, huyện T, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ ngày 20/7/2022, sau khi uống rượu bia cùng với bạn tên thường gọi là Quế (không rõ lai lịch) tại khu vực Ấp 6, xã H, huyện B đi bộ đến nhà bạn tên Tiến (không rõ lai lịch) để xin ngủ nhờ. Khi đi bộ đến bãi đất trống thuộc Tổ 103, Ấp 6, xã H thì H phát hiện 01 xe mô tô loại Honda màu đỏ đen, biển số 47H1 – xxxxx của ông Lý Sẹc T đang đậu, không người trông coi nên đã nảy sinh ý định trộm xe mô tô bán lấy tiền tiêu xài. Lúc này, H đi lại gần và lén lút đẩy xe mô tô biển số 47H1 – xxxxx ra đường bê tông, được khoảng 100 mét thì H mệt, không đẩy nổi xe mô tô nữa nên H đậu xe mô tô lại rồi đi đến nhà bạn là Phương Trần Thái B ở địa chỉ khu phố 4, thị trấn T, huyện B nhờ B đẩy phụ xe mô tô thì B đồng ý. Sau đó, B điều khiển xe mô tô biển số 59N3 – xxxxx chở H theo chỉ dẫn của H đến chỗ đậu xe mô tô biển số 47H1 – xxxxx. Tại đây, H nói cho B biết nguồn gốc xe mô tô biển số 47H1 – xxxxx là do H trộm cắp được và nhờ B giúp mình đẩy xe ra trạm xăng, B đồng ý. Lúc này, H ngồi trên xe mô tô biển số 47H1 – xxxxx để B điều khiển xe mô tô biển số 59N3 – xxxxx dùng chân đẩy, khi đến trước địa chỉ Số 14, Đường số 3, Ấp 2, xã A thì bị Công an xã A nghi vấn, yêu cầu dừng lại để kiểm tra. Lê Minh H khai nhận xe mô tô biển số 47H1 – xxxxx là do trộm cắp được tại xã Hưng Long nên Công an xã An Phú Tây đã bàn giao H và B cho Công an xã H lập hồ sơ ban đầu, chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh để điều tra, xử lý. Riêng ông Lý Sẹc T sau khi phát hiện mất trộm xe mô tô biển số 47H1 – xxxxx, đã đến Công an xã H trình báo sự việc.

Kết luận định giá tài sản số 300/KL-HĐĐGTS ngày 26/7/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Chánh xác định: 01 xe mô tô Wave biển số 47H1-xxxxx trị giá 7.000.000 đồng.

Cáo trạng số 203/CT-VKS ngày 26/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Bị cáo Lê Minh H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173 và điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 15 tháng đến 18 tháng tù; Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét. Về vật chứng: Ghi nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã trả 01 xe mô tô Wave biển số 47H1-xxxxx và 01 xe mô tô Suzuki Satria biển số 59N3- xxxxx cho ông Lý Sẹc T và ông Phan Thanh G; đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 cái áo sơ mi màu đen, 01 quần lửng màu đen, 01 áo thun màu xanh và 01 quần jean lửng màu xanh.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, đương sự không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Sáng ngày 20/7/2022, bị cáo Lê Minh H có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe mô tô biển số 47H1-xxxxx của ông Lý Sẹc T trị giá 7.000.000 đồng tại bãi đất trống thuộc Tổ 103, Ấp 6, xã H, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Lê Minh H đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả lại cho bị hại nên được xem là chưa gây thiệt hại nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu, nhiều lần bị xử lý hình sự và từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[4] Đối với Phương Trần Thái B có hành vi giúp bị cáo đẩy xe mô tô biển số 47H1- xxxxx đến trạm xăng sau khi hành vi phạm tội xảy ra nên không đồng phạm với bị cáo. B không biết và hứa hẹn trước với bị cáo và hành vi phạm tội của bị cáo thuộc khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nên chưa đủ căn cứ xử lý B về tội “Che giấu tội phạm” hoặc tội “Không tố giác tội phạm”.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

[6] Quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã xử lý:

- 01 xe mô tô Wave biển số 47H1-xxxxx, qua xác minh do bà Nguyễn Thị Thu H là vợ của ông Lý Sẹc T đứng tên chủ sở hữu. Vào tối ngày 19/7/2022, ông Tầy điều khiển xe mô tô này đến khu vực vườn tràm và đậu xe để cắm cần câu cá.

- 01 xe mô tô Suzuki Satria biển số 59N3-xxxxx, qua xác minh do ông Phan Thanh G đứng tên chủ sở hữu. Vào rạng sáng ngày 20/7/2022, ông G đang ở tại nhà D7/23D khu phố 4, thị trấn T, huyện Bình Chánh thì hàng xóm là ông Phương Trần Thái B mượn xe để đi mua đồ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã trả 01 xe mô tô Wave biển số 47H1-xxxxx và 01 xe mô tô Suzuki Satria biển số 59N3-xxxxx cho ông Lý Sẹc T và ông Phan Thanh G nên không xem xét.

[7] Về xử lý vật chứng: 01 cái áo sơ mi màu đen và 01 quần lửng màu đen thu giữ của Lê Minh H; 01 áo thun màu xanh và 01 quần jean lửng màu xanh thu giữ của Phương Trần Thái B. Vật này bị thu giữ đã lâu và có giá trị không lớn, không còn sử dụng được nên tịch thu, tiêu hủy.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

* Tuyên bố bị cáo Lê Minh H (Tên gọi khác: Trắng) phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

* Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Lê Minh H: 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/7/2022.

* Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu hủy: 01 cái áo sơ mi màu đen; 01 quần lửng màu đen; 01 áo thun màu xanh và 01 quần jean lửng màu xanh.

(Các vật chứng trên đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 28/10/2022 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh).

* Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về án phí: Bị cáo Lê Minh H chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội trộm cắp tài sản số 216/2022/HS-ST

Số hiệu:216/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về