Bản án về tội trộm cắp tài sản số 214/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 214/2021/HS-ST NGÀY 20/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 

Ngày 20 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 160/2021/TLST/HSST ngày 27 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 243/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Văn B (tên gọi khác: không), sinh năm 1990, Tại: Nam Định; Thường trú: Đường X, thôn N, xã Đ, huyện L, tỉnh Bình Thuận, Chỗ ở: Không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: không biết chữ, biết ghi tên; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Nguyễn Văn D; Mẹ: Nguyễn Thị T; Vợ: Trần Thị Thu H, con: chưa có. Tiền án: Có 01 tiền án: Ngày 20/11/2019, bị Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 121/2019/HSST ngày 20/11/2019, ngày 04/11/2020 chấp hành xong hình phạt tù, đã đóng án phí theo lệnh chuyển ngày 01/9/2020. (BL: 84-88). Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 29/9/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 118 ngày 29/9/2015, ngày 26/12/2015 chấp hành xong hình phạt tù và đóng án phí hình sự sơ thẩm ngày 01/6/2016 (BL: 78-83); bị bắt, tạm giam ngày 06/01/2021. (Có mặt).

- Bị hại: Anh Võ Hoàng A (vắng mặt) Địa chỉ: đường Y, khu phố 1, phường L, thành phố Đ, Thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 30 phút ngày 06/01/2021, Nguyễn Văn B điều khiển xe mô tô biển số 86B8- 414.12 đến nhà trọ số 64/7 đường số 16, khu phố 1, phường Linh Trung, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tìm bạn nhưng không được. Do không có tiền tiêu xài, B thấy phòng số C3, nhà trọ số 64/7 đường số 16, khu phố 1, phường Linh Trung, thành phố Thủ Đức do anh Võ Hoàng A, sinh năm 1985 thuê ở khóa cửa ngoài nên nảy sinh ý định bẻ khóa đột nhập vào trong lấy trộm tài sản. B lấy tua vít mang sẵn trong người cạy phá khóa cửa vào phòng trọ lục tìm tài sản lấy trộm. B đi lên gác lửng phát hiện có 01 máy vi tính xách tay hiệu Dell để trong một túi giấy hiệu Viettien. B lấy túi giấy bên trong có máy vi tính xách tay hiệu Dell đi xuống tầng trệt định tẩu thoát. Tuy nhiên, khi B định đi ra khỏi cửa phòng C3 thì phát hiện ông Ninh Viết Toán (sinh năm 1957) ở phòng C2, cùng dãy trọ 64/7 nhìn thấy B, sợ bị phát hiện nên B đã để túi giấy bên trong có máy vi tính xách tay trên ghế trong phòng số C3 và đi ra khỏi phòng trọ thì ông Toán hỏi B “Sao mở cửa phòng người ta”, B trả lời “Tôi vào phòng bạn” rồi lên xe định bỏ chạy thì bị ông Toán bắt quả tang giao cho Công an phường Linh Trung lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Kết luận định giá tài sản số 31/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 08/01/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Thủ Đức kết luận chiếc máy tính xách tay hiệu Dell Inspiron 15R 5537 Core i7 của anh Ân có trị giá là 7.750.000 đồng (BL: 24).

Tại bản Cáo trạng số 130/CT-VKS ngày 22/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Văn B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đã truy tố, bị cáo thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức phát biểu ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn B về tội: “Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, đã được sửa đổi bổ sung năm 2017, tình tiết tăng nặng tái phạm tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa chiếm đoạt được tài sản nên thuộc trường hợp phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại được quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 12 tháng đến 18 tháng tù, phần dân sự đã giải quyết xong, vật chứng xử lý theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa.

Bị cáo nói lời sau cùng: Xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

2 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung:

Lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn B phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được, có căn cứ xác định bị cáo Nguyễn Văn B đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại anh Võ Hoàng A tại phòng số C3, nhà trọ số 64/7 đường số 16, khu phố 1, phường Linh Trung, thành phố Thủ Đức, tài sản chiếm đoạt là 01 máy tính xách tay hiệu Dell màu xám trị giá 7.750.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở pháp lý kết luận bị cáo Nguyễn Văn B đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một tiền án, tính đến ngày phạm tội mới chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa chiếm đoạt được tài sản nên thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

- Bị hại anh Võ Hoàng A đã nhận lại tài sản là máy tính xách tay hiệu Dell màu xám và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về xử lý vật chứng:

- 01 máy tính xách tay hiệu Dell màu xám trong túi giấy màu vàng có ghi chữ Viettien. Ngày 19/01/2021, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Thủ Đức đã trả lại cho anh Ân là chủ sở hữu là đúng quy định.

- 01 tua vít dài 20cm có giá trị không lớn, là công cụ phạm tội, cần tịch thu tiêu hủy.

- 01 xe mô tô hiệu Vision màu đen đỏ, biển số 86B8-414.12, có số khung: RLHJF5818GY538146, số máy JF66E0797675 là phương tiện bị cáo sử dụng đến nơi gây án và sẽ dùng để tẩu thoát cùng tài sản chiếm đoạt, cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 57, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B: 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/01/2021.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và căn cứ vào Điều 106 Bộ luật tố tụng hình năm 2015:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 tua vít dài 20cm + Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Vision màu đen đỏ, biển số 86B8-414.12, có số khung: RLHJF5818GY538146, số máy JF66E0797675.

(Theo phiếu nhập kho số 140 ngày 26/4/2021, phiếu nhập kho số 160 ngày 18/5/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Án phí: Căn cứs khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn Văn B chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án. Riêng bị hại vắng mặt, thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

273
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 214/2021/HS-ST

Số hiệu:214/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:20/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về