Bản án về tội trộm cắp tài sản số 21/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Tiên D, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 16/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên D, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2021/QĐXXST - HS ngày 06 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo: Nguyễn Xuân Trường, sinh năm 1989; HKTT: Thôn Long Văn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên D, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Chiểu, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị Toàn, sinh năm 1963; Vợ: Cao Thị Hương, con: có 01 con, sinh năm 2015.

Tiền án: 06 tiền án:

+ Tại Bản án số 163/HSST ngày 20/8/2009 của TAND quận Long Biên, thành phố Hà Nội, xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (Giá trị tài sản trộm cắp là 16.645.000 đồng). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/5/2010.

+ Tại Bản án số 26/HSST ngày 09/11/2010 của TAND quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (Giá trị tài sản trộm cắp là 400.000 đồng). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 26/4/2011.

+ Tại Bản án số 202/HSST ngày 14/5/2012 của TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (Phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 20/10/2012.

+ Tại Bản án số 84/HSST ngày 09/4/2013 của TAND quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội, xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (Giá trị tài sản trộm cắp là 12.200.000 đồng). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/6/2014.

+ Tại Bản án số 227/HSST ngày 16/6/2016 của TAND quận Đống Đa, thành phố Hà Nội, xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c, đ khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 (Giá trị tài sản trộm cắp là 2.600.000 đồng). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/5/2018.

+ Tại Bản án số 268/HSST ngày 13/11/2019 của TAND quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/02/2021.

Tiền sự: Không. Nhân thân:

+ Tại Bản án số 173/HSST ngày 28/10/2021 của TAND huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Bị cáo đầu thú ngày 05/8/2021, tạm giữ từ ngày 06/8/2021 đến ngày 15/8/2021 chuyển tạm giam, theo lệnh của Cơ quan tiến hành tố tụng huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội.

(Có mặt tại phiên tòa).

Bị hại:

1. Anh Phan Văn T, sinh năm 1985; HKTT: Thôn Quan Â, xã Bắc H, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội (Vắng mặt- xin xét xử vắng mặt)

2. Anh Đinh Tiến D, sinh năm 1982; HKTT ở thôn Thanh Hà, xã Thanh Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình (Vắng mặt);

3. Anh Nguyễn Tiến Đ, sinh năm 1995; HKTT: thôn Đồng Chồm, xã Thanh Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình (Vắng mặt);

4. Anh Trần Quốc T, sinh năm 2001; HKTT: Thôn Yên Thời, xã Hữu Lợi, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình (Vắng mặt);

5. Cháu Nguyễn Văn S, sinh năm 2006: HKTT: Xóm Cáp, xã Thanh Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình (vắng mặt); Người đại diện:

1. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1979; địa chỉ: Xóm Cáp, xã Thanh Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình (Vắng mặt);

2. Ông Nguyễn Hữu Chiến, Phó Bí thư đoàn thanh niên TT Lim, huyện Tiên D, tỉnh Bắc Ninh; địa chỉ: UBND TT. Lim, huyện Tiên D, tỉnh Bắc Ninh (Vắng mặt-Xin xét xử vắng mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Công ty TNHH xây dựng và dịch vụ thương mại Hoàng Hải; người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hồng Hải, chức vụ: Giám đốc (Vắng mặt);

Địa chỉ: Số 35, Trần Khát Chân, quận Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Xuân Trường, sinh năm 1989, hộ khẩu thường trú (HKTT) ở thôn Long Văn, xã Việt Đoàn, huyện Tiên D, tỉnh Bắc Ninh là đối tượng có nhân thân xấu, đã có 06 tiền án về tội ‘‘Trộm cắp tài sản’’chưa được xóa án tích. Thời gian vừa qua, để có tiền chi tiêu cá nhân Trường đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Tiên D, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng gần 02 giờ ngày 19/5/2021, Trường đi bộ một mình đến khu đất mới thôn Đại Sơn, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên D thì thấy một chiếc lán có đề biển hiệu “Gạch ốp lát’’ của anh Phan Văn T, sinh năm 1985, HKTT: Thôn Quan Â, xã Bắc H, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Quan sát thấy cửa lán chỉ khép, không khóa, Trường liền đẩy cửa đi vào bên trong tìm kiếm tài sản để trộm cắp. Qua ánh điện, Trường thấy có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda PCX, sơn màu đen nâu, biển kiểm soát (BKS): 29S1 - 023.25 của anh Toản đang dựng ở giữa lán, chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện, xe không khóa cổ khóa càng, trên xe treo một chiếc mũ bảo hiểm dạng nửa đầu màu đỏ - trắng. Lúc này, anh Toản và vợ đang nằm ngủ trên chiếc phản ở góc bên phải của lán. Phía đầu phản, anh Toản có để 01 chiếc điện thoại di động Iphone 7 Plus, màu trắng và 01 chiếc điện thoại Iphone 6 Plus màu đen. Thấy vậy, Trường liền lấy 02 chiếc điện thoại trên đút vào túi quần, rồi dắt chiếc xe mô tô ra khỏi lán, nổ máy đi ra TP. Hà Nội. Trên đường đi, Trường nhặt được 01 chiếc mũ bảo hộ lao động màu vàng treo vào xe mô tô. Tiếp đó, Trường đi đến 01 cây xăng ở ven đường để mua xăng, khi mở cốp xe ra đổ xăng Trường thấy trong cốp xe có 01 CMND, 02 giấy đăng ký xe ô tô, 01 quyển sổ hộ khẩu, 02 giấy bảo hiểm xe ô tô. Đổ xăng xong Trường tiếp tục điều khiển xe đi sang TP.Hà Nội. Sau đó, Trường đỗ xe lại ven đường (không nhớ vị trí), mở cốp xe mô tô ra lấy toàn bộ giấy tờ vứt xuống rìa đường, rồi đi sang Công viên Thống Nhất - TP. Hà Nội. Khoảng gần sáng, khi đến công viên Thống Nhất, Trường đã lấy 02 chiếc điện thoại vừa trộm cắp được ra và bán cho một người đàn ông không quen biết được số tiền là 800.000 đồng. Sau đó, Trường đi xe mô tô đến và gửi tại bãi gửi xe công cộng địa chỉ: số 19, Hàng Khoai, P. Đồng Xuân, Q. Hoàn Kiếm TP. Hà Nội . Khi gửi xe xong, Trường quay ra bắt xe Bus về nhà. Số tiền bán 02 chiếc điện thoại Trường đã tiêu cá nhân hết. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, do tình hình dịch bệnh Covid 19 và nghĩ là không thể tìm lại được tài sản lên anh Phan Văn T đã không trình báo Cơ quan Công an. Đến ngày 18/9/2021, anh Toản lên Cơ quan điều tra trình báo.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 73 ngày 22/10/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên D kết luận: 01chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda PCX, màu đen, nâu, BKS: 29S1 - 023.25, số máy: 2125893, số khung: 022414, đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là 20.000.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus, màu đen. Tài sản đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là 2.200.000 đồng; 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu đen. Tài sản đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là: 1.200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 23.400.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 01 giờ ngày 05/8/2021, Trường đi bộ một mình từ nhà sang thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên D xem có nhà nào sơ hở sẽ trộm cắp tài sản. Khi đi đến khu đất mới thôn Phật Tích, Trường phát hiện thấy xưởng cơ khí của anh Đinh Tiến D, sinh năm 1982, HKTT: thôn Thanh Hà, xã Thanh Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình không khóa cửa. Trường liền đi vào bên trong xưởng, qua ánh điện, Trường thấy có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wawe, màu đỏ - đen - bạc, BKS: 28P1 - 1995 của anh Nguyễn Tiến Đ, sinh năm 1995, HKTT: thôn Đồng Chồm, xã Thanh Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, đang dựng phía trong gần cửa xưởng. Xe không khóa cổ, khóa càng nhưng đã rút chìa khóa điện ra khỏi xe. Trường nhìn xung quanh thấy có 01 chiếc chìa khóa xe mô tô tại bàn uống nước dưới gác xép của xưởng. Trường liền lấy chiếc chìa khóa này cắm vào ổ khóa xe mô tô trên thì mở được khóa điện. Sau đó, Trường tiếp tục đi lên gác xép thì thấy có một số người đang ngủ, trên mặt sàn gác sép gần chỗ họ ngủ có: 01 chiếc ví da màu đen, bên trong có 500.000 đồng của anh Trần Quốc T, sinh năm 2001, HKTT: thôn Yên Thời, xã Hữu Lợi, huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình; 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus màu đen và 01 chiếc điện thoại Oppo A73 màu đen của cháu Nguyễn Văn S, sinh năm 2006, HKTT: xóm Cáp, xã Thanh Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình; 01 chiếc điện thoại Redmi A8 màu đen của anh Đinh Tiến D. Trường liền lấy 03 chiếc điện thoại và chiếc ví da đút vào túi quần, rồi đi xuống dắt chiếc xe mô tô của anh Đạt ra ngoài đường đề nổ máy phóng lên đê đi theo hướng Cầu Hồ. Trên đường đi, Trường thấy 01 lán xây dựng ở ven đê, Trường đỗ xe lại, đi vào trong lán, thấy có một người đàn ông đang ngủ trên giường, canh đó có 01 chiếc điện thoại Redmi Note 8 pro, màu đen. Trường lấy chiếc điện thoại này, rồi tiếp tục điều khiển xe ra Cầu Hồ và đi sang TP. Hà Nội. Khoảng gần 05 giờ cùng ngày, Trường gặp và bán bán 03 chiếc điện thoại trộm cắp được ở xưởng cơ khí của anh Dương cho một người đàn ông không quen biết ở ven đường được tổng số tiền là 2.600.000 đồng. Sau đó, Trường đi chiếc xe mô tô trộm cắp đến gửi tại bãi gửi xe của Bệnh viện Trung ương Quân Đội 108, địa chỉ: số 01 Trần Hưng Đạo, Q. Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội. Trước khi gửi xe, Trường có mở cốp xe mô tô ra kiểm tra thì thấy có 01 chiếc ví nam màu đen, bên trong có 800.000 đồng, giấy tờ tùy thân của anh Nguyễn Tiến Đ và 01 đăng ký xe mô tô của chiếc xe mô tô trên. Trường lấy toàn bộ số tiền trong ví, còn chiếc ví và giấy tờ Trường vẫn để tại cốp xe. Sau đó, Trường đi ra ngoài đường, mở chiếc ví đã trộm cắp của anh Trần Quốc T ra lấy 500.000 đồng cất vào túi quần, còn chiếc ví Trường vứt vào 01 thùng rác ven đường. Chiếc điện thoại Redmi Note 8 Pro, màu đen lấy ở lán trên đê, Trường không bán mà để lại sử dụng. Sau đó, Trường bắt xe buýt về nhà, số tiền bán điện thoại và số tiền trộm cắp được Trường đã tiêu cá nhân hết. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, do tình hình dịch bệnh Covid 19 và nghĩ là không thể tìm lại được tài sản lên anh Nguyễn Tiến Đ, anh Đinh Tiến D, anh Trần Quốc T và cháu Nguyễn Văn S đã không trình báo Cơ quan Công an. Đến ngày 18/9/2021, những người trên mới lên Cơ quan điều tra trình báo.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 72 ngày 22/10/2021, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên D kết luận: 01chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 28P1-1995, màu đỏ, đen số máy: C43E-5628519, số khung: 4323AY525282, xe đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là 9.000.000 đồng; 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8Plus, màu đen. Tài sản đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là 5.000.000 đồng; 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A73, màu đen. Tài sản đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là: 800.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi A8, màu đen. Tài sản đã qua sử dụng. Có giá trị còn lại là 900.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 15.700.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản và tiền mà bị cáo Nguyễn Xuân Trường đã trộm cắp của hai vụ nêu trên là: 40.400.000 đồng.

Về vật chứng của vụ án:

Tối ngày 05/8/2021, Nguyễn Xuân Trường đã đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội đầu thú khai nhận hành vi trộm cắp tài sản ngày 25/7/2021 tại huyện Gia Lâm, đồng thời tự khai 02 vụ trộm cắp tài sản tại huyện Tiên D. Cơ quan điều tra huyện Gia Lâm đã tiến hành tạm giữ của Trường: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 8 pro, màu đen; 01 thẻ gửi xe máy No 5070, màu xanh trắng của Bệnh viện Trung ương quân đội 108. Trường khai nhận thẻ gửi xe máy trên là của chiếc xe mô tô Honda Wawe, màu đỏ - đen - bạc, BKS: 28P1 - 1995 đang gửi tại bãi gửi xe của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Ngày 06/8/2021, Cơ quan điều tra huyện Gia Lâm đã tiến hành tạm giữ: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda PCX, sơn màu đen nâu, BKS: 29S1 - 023.25, bên trong có 01 chiếc mũ bảo hiểm dạng nửa đầu, màu đỏ trắng và 01 chiếc mũ dạng mũ bảo hộ lao động màu vàng; 01 chiếc xe mô tô Honda Wawe, màu đỏ - đen - bạc, BKS: 28P1 - 199501, số máy C43E - 5628519, số khung 4323AY525282, đã qua sử dụng, bên trong cốp xe có 01chiếc ví da màu đen (bên trong ví có: 01 đăng ký mô tô, xe máy mang tên Nguyễn Hồng Sơn, sinh năm 1975, địa chỉ: Thôn Đồng Rẽ, xã Hợp Thanh, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình; 01 giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Tiến Đ). Ngày 28/9/2021, Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm đã bàn giao toàn bộ số vật chứng đã tạm giữ trên cho Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên D để giải quyết theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra bị cáo Nguyễn Xuân Trường đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu ở trên.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số: 131/CT-VKSTD ngày 29/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên D, tỉnh Bắc Ninh. Truy tố bị cáo Trường về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Quá trình xét hỏi tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên D thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Trường phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1, Điều 173; điểm r, s khoản 1; Điều 51; điểm g, h khoản 1, điều 52; Điều 38, Điều 56 BLHS.

Xử phạt: Nguyễn Xuân Trường từ 28 tháng tù đến 32 tháng tù; tổng hợp với 09 tháng tù tại bản án đã có hiệu lực pháp luật số 173/2021/HSST ngày 28/10/2021 của TAND huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là từ 37 tháng tù đến 41 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào điều 48 BLHS; các điều 584; điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường số tiền 3.400.000 đồng cho anh Phan Văn T, bồi thường 900.000 đồng cho anh Đinh Tiến D, bồi thường 5.800.000 đồng cho cháu Nguyễn Văn S. Bị cáo phải trả lại số tiền 800.000 đồng cho anh Nguyễn Tiến Đ, trả lại 500.000 đồng cho anh Trần Quốc T.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu huỷ 01 thẻ gửi xe máy No 5070 màu xanh trắng và 01 chiếc mũ bảo hộ lao động màu vàng.

Trong phần tranh luận:

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt;

Bị cáo nhận thấy bị Toà án nhân dân huyện Tiên D xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Tiên D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Bị hại anh Phan Văn T xin vắng mặt tại phiên toà; Đại diện bị hại anh Nguyễn Hữu Chiến xin vắng mặt tại phiên toà; Những người bị hại khác và người liên quan đã được tống đạt; có lời khai tại Cơ quan điều tra việc vắng mặt không ảnh hưởng tới việc xét xử vì vậy Hội đồng xét xử vắng mặt các bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản xác định hiện trường, biên bản dẫn giải, phù hợp vật chứng thu giữ, với thời gian, địa điểm, lời khai bị hại, người liên quan và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Do không có tiền chi tiêu cá nhân nên Nguyễn Xuân Trường đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn huyện Tiên D, tỉnh Bắc Ninh, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 02 giờ ngày 19/5/2021, tại thôn Đại Sơn, xã Hoàn Sơn, huyện Tiên D, tỉnh Bắc Ninh, Trường đã trộm cắp của anh Phan Văn T 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda PCX, sơn màu đen nâu, BKS: 29S1-023.25 có giá trị 20.000.000 đồng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus, màu đen có giá trị 2.200.000 đồng và 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 Plus, màu đen có giá trị 1.200.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng hơn 01 giờ ngày 05/8/2021, tại xưởng cơ khí của anh Đinh Tiến D, địa chỉ: khu đất mới thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên D, bị cáo đã trộm cắp: 01 chiếc xe mô tô Honda Wawe, màu đỏ - đen - bạc, BKS: 28P1 - 1995 có giá trị 9.000.000 đồng và số tiền 800.000 đồng của anh Nguyễn Tiến Đ; 500.000 đồng của anh Trần Quốc T; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8Plus, màu đen, có giá trị 5.000.000 đồng và 01chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Oppo A73, màu đen có giá trị 800.000 đồng của cháu Nguyễn Văn S;

01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi A8, màu đen có giá trị 900.000 đồng của anh Đinh Tiến D.

Tổng giá trị tài sản bị cáo trộm cắp là 40.400.000 đồng.

Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Xuân Trường đã phạm tội ''Trộm cắp tài sản'' theo khoản 1, điều 173 BLHS như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên D, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp công dân, được pháp luật bảo vệ, gây mất gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng, bất bình trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải đưa bị cáo ra xét xử kịp thời và có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy:

Bị cáo Trường là người có nhân thân rất xấu, bị cáo liên tiếp thực hiện các hành vi phạm tội bị các Toà án xử vào các năm 2009, 2010, 2012, 2013, 2016, 2019; Đối với bản án số 268/2019/HSST ngày 13/11/2019 của Toà án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/02/2021 đến nay chưa được xoá án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm. Mặt khác tại địa bàn huyện Tiên D bị cáo thực hiện 2 hành vi phạm tội, mỗi lần phạm tội giá trị bị cáo trộm cắp đều có giá trị trên 2.000.000 đồng, nên bị cáo phải chịu các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm g, h; khoản 1; điều 52 BLHS.

Ngoài hành vi phạm tội trên địa bàn huyện Tiên D, bị cáo còn có hành vi trộm cắp tại huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Bị cáo nhận thức được hành vi của bản thân nên đã ra đầu thú tại Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lâm và tự thú về hành vi xảy ra tại huyện Tiên D nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại r, khoản 1, điều 51 BLHS.

Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1; điều 51 Bộ luật hình sự.

Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên D, Hội đồng xét xử xét thấy:

Bị cáo đã nhiều lần bị các Toà án xét xử về cùng tội “Trộm cắp tài sản” bị cáo không lấy đó làm bài học, liên tiếp phạm tội; chứng tỏ bị cáo là người coi thường pháp luật; Cần thiết phải xử bị cáo một mức án tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung, giúp bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội, biết tôn trọng pháp luật.

Bản án số 173/2021/HSST ngày 28/10/2021 của TAND huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội đã có hiệu lực pháp luật; nên cần tổng hợp và buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án theo quy định tại điều 56 BLHS.

[4] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích bán lấy tiền ăn tiêu, lẽ ra ngoài hình phạt chính cần phạt bổ sung một khoản tiền đối với bị cáo, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; Tuy nhiên bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, khi ra trại ai thuê gì làm đó, chủ yếu làm phụ vữa, đủ nuôi sống bản thân, không có tài sản riêng gì, vì vậy miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Phan Văn T yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 3.400.000 đồng, anh Đinh Tiến D yêu cầu bị cáo bồi thường 900.000 đồng, cháu Nguyễn Văn S yêu cầu bị cáo bồi thường 5.800.000 đồng theo kết quả định giá những chiếc điện thoại bị cáo đã trộm cắp. Anh Nguyễn Tiến Đ yêu cầu bị cáo trả lại số tiền 800.000 đồng, anh Trần Quốc T yêu cầu bị cáo trả lại 500.000 đồng mà bị cáo đã trộm cắp. Đến nay bị cáo chưa bồi thường cho các bị hại. Yêu cầu trên của các bị hại là có căn cứ nên buộc bị cáo phải bồi thường số tiền trên cho các bị hại.

Đối với những giầy tờ của anh Phan Văn T và chiếc ví của anh Trần Quốc T đã bị trộm cắp và vứt đi hiện chưa thu hồi được, anh Phan Văn T và anh Trần Quốc T không có yêu cầu gì nên HĐXX không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda PCX, sơn màu đen nâu, BKS: 29S1 - 023.25 và 01 chiếc mũ bảo hiểm dạng nửa đầu, màu đỏ trắng là tài sản của anh Phan Văn T; đối với 01 chiếc xe mô tô Honda Wawe, màu đỏ - đen - bạc, BKS: 28P1 - 1995 và 01 chiếc ví da màu đen, 01 đăng ký mô tô, xe máy số 002364, 01 giấy phép lái xe số 670187003174 là tài sản của anh Nguyễn Tiến Đ nên ngày 05/11/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên D đã trả lại các tài sản trên cho bị hại là đúng quy định pháp luật.

Đối với 01 thẻ gửi xe máy No 5070 màu xanh trắng là của Công ty TNHH xây dựng và dịch vụ thương mại Hoàng Hải phát hành, có giá trị nhỏ, đại diện công ty không có ý kiến hay yêu cầu gì nên tịch thu tiêu huỷ.

Đối với 01 chiếc mũ bảo hộ lao động màu vàng bị cáo nhặt được trên đường, tài sản đã cũ, không có giá trị sử dụng, không ai có ý kiến yêu cầu gì nên tịch thu tiêu huỷ.

[7] Liên quan trong vụ án này: Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Redmi Note 8 pro, màu đen, mà bị cáo trộm cắp của một người ở ven đê. Cơ quan điều tra đã dẫn giải bị cáo để chỉ vị trí đã trộm cắp chiếc điện thoại trên nhưng bị cáo không nhớ được vị trí cụ thể. Cơ quan điều tra đã thông báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa tìm được. Do vậy, cần tách lại chiếc điện thoại này lại Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên D để tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là đúng quy định pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Xuân Trường phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ khoản 1, Điều 173; điểm r, s, khoản 1; Điều 51; điểm g, h; khoản 1 điều 52; Điều 38; Điều 56 BLHS. Các Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Nguyễn Xuân Trường 30 tháng tù, tổng hợp với 09 tháng tù tại bản án đã có hiệu lực pháp luật số 173/2021/HS-ST ngày 28/10/2021 của TAND huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội; Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 39 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 05/8/2021.

* Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào điều 48 BLHS; các điều 584; điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường số tiền 3.400.000 đồng cho anh Phan Văn T, bồi thường 900.000 đồng cho anh Đinh Tiến D, bồi thường 5.800.000 đồng cho cháu Nguyễn Văn S (người đại diện là ông Nguyễn Văn S). Bị cáo phải trả lại số tiền 800.000 đồng cho anh Nguyễn Tiến Đ, trả lại 500.000 đồng cho anh Trần Quốc T.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, người thi hành án không tự nguyện thi hành thì phải chịu lãi đối với số tiền chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự; Nếu không có thỏa thuận thì được thực hiện theo khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 BLHS; điều 106 BLTTHS.

Tịch thu tiêu huỷ: 01 thẻ gửi xe máy No 5070 màu xanh trắng và 01 chiếc mũ bảo hộ lao động màu vàng.

(Theo đúng Biên bản bàn giao vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Tiên D và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên D, tỉnh Bắc Ninh ngày 26/11/2021).

*Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 570.000 đồng án phí Dân sự sơ thẩm.

* Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ./.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 21/2021/HS-ST

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về