Bản án về tội trộm cắp tài sản số 210/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HOÀN KIẾM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 210/2022/HS-ST NGÀY 26/10/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 219/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 10 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 219/2022/QĐXX- ST ngày 13 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên : Lê Linh C Giới tính : Nữ Sinh năm : 1992 Tên gọi khác : không ĐKHKTT : 37 tổ 3 Thanh Lương, phường T, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội Nơi ở: Không nơi ở nhất định Quốc tịch : Việt Nam Dân tộc : Kinh Tôn giáo : Không Nghề nghiệp : Tự do Trình độ học vấn : 12/12 Họ tên cha : Lê Ngọc Lo - Sinh năm : 1960 Họ tên Mẹ : Cù Thị Bích N - Sinh năm: 1962 Chồng : Nguyễn Minh Chính - Sinh năm : 1988 (Đã ly hôn) Có 03 con, lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2017 Tiền án, Tiền sự : Không Bắt tạm giam : 25/7/2022 Số giam :3800B2/M1 Bị cáo hiện bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội (Có mặt tại phiên tòa) 

- Bị hại Công ty cổ phần đầu tư thương mại phát triển N Trụ sở: 18A Cộng Hòa, phường 1, quận T, TP H Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Văn T- Chức danh: Tổng giám đốc Người đại diện theo ủy quyền: Anh Đinh Minh Q tòa).

Nơi ở hiện tại:, phường H, quận H, TP Hà Nội. (Anh Q có mặt tại phiên tòa).

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan : Bà Cù Thị Bích N Nơi ở hiện tại: 231 K, phường T, quận H, TP H. (Bà Ngân có mặt tại phiên

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 20/5/2022, anh Đinh Minh Q (sinh năm : 1997 ; nơi ở: M7 Mipec Kiến Hưng, quận Hà Đông, TP. Hà Nội ; đại diện Công ty cổ phần đầu tư thương mại phát triển Nhất Tín) gửi đơn đến Cơ quan điều tra – Công an quận Hoàn Kiếm tố giác Lê Linh C là nhân viên của công ty đã nhiều lần có hành vi trộm cắp bưu kiện hàng tại Bưu cục Hoàn Kiếm - số 337 Hồng Hà, phường Phúc Tân, quân Hoàn Kiếm, Hà Nội (cụ thể tài sản bị trộm cắp gồm 4 điện thoại di động : 02 điện thoại di động Samsung Galaxy Zflip 3, 01 điện thoại Xiaomi 11T Pro, 01 điện thoại Iphone 13 Pro Max 512 GB).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 125/KL-HĐĐGTS ngày 18/6/2022 của Hội đồng định giá thường xuyên để định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận Hoàn Kiếm kết luận:

Trị giá 02 Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Zflip 3 128 GB màu kem, hàng mới chưa qua sử dụng, nguyên seal vào tháng 3/2022 là 45.760.000 đồng.

Trị giá 01 Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi 11T Pro (12+256 GB) màu xám, hàng mới chưa qua sử dụng, nguyên seal vào tháng 4/2022 là 12.291.000 đồng.

Trị giá 01 Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 13 Pro Max 512 GB màu xanh, hàng mới chưa qua sử dụng, nguyên seal vào tháng 4/2022 là 35.599.000 đồng.

Tổng trị giá 93.650.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, Lê Linh C khai: Khoảng tháng 11 năm 2021, Lê Linh C vào làm nhân viên giao nhận hàng hóa tại Bưu cục Hoàn Kiếm - số 337 Hồng Hà, phường Phúc Tân, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Trong quá trình làm việc, C nhận thấy bưu cục có nhiều sơ hở trong việc quản lý tài sản nên khoảng tháng 3 đến tháng 4 năm 2022, lợi dụng việc bưu cục vắng người vào cuối giờ Cều, C đã lấy trộm 03 bưu kiện tại khu vực quản lý của anh Nguyễn Hữu Trung (sinh năm: 1987, trú tại: 115 Phúc Xã, phường Phúc Xá, quận Ba Đình, Hà Nội) cất vào tủ cá nhân của C, rồi đợi lúc không ai để ý mang ra ngoài bán để lấy tiền tiêu xài cá nhân. Cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng đầu tháng 3/2022, lợi dụng lúc anh Trung không có mặt tại C cục, C đã lấy trộm 01 hộp bưu kiện, bên ngoài có dán mã hàng của Thế giới di động, bên trong bưu kiện hàng chứa 02 (hai) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Zflip 3 (chưa qua sử dụng). Ngày 10/3/2022, C mang 01 điện thoại nêu trên đến cửa hàng 34 Đặng Dung, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội bán cho anh Nguyễn Huy Toán (sinh năm: 1979, trú tại: 43 Đặng Dung, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội) với giá 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng). Khoảng 02 ngày sau, C tiếp tục bán 01 Chiếc điện thoại còn lại cho anh Toán với giá 13.000.000 đồng. Tổng số tiền C bán 02 Chiếc điện thoại trên là 26.000.000 VNĐ (Hai mươi sáu triệu đồng).

Lần thứ hai: Ngày 16 và 17/4/2022, bằng thủ đoạn tương tự, C tiếp tục lấy trộm 01 bưu kiện hàng tại khu vực hàng hóa nơi anh Trung quản lý, bên ngoài bưu kiện hàng có dán mã hàng Thế giới di động, bên trong chứa 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi 11T Pro (chưa qua sử dụng). Ngày 18/4/2022, C mang điện thoại trên đến cửa hàng số 26A Đặng Dung bán cho anh Nguyễn Văn Tuấn (sinh năm: 1988, trú tại : 26A Đặng Dung, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, Hà Nội) với giá 8.500.000 VND.

Lần thứ ba : Ngày 22/4/2022, bằng thủ đoạn tương tự, C tiếp tục lấy trộm 01 bưu kiện hàng, bên ngoài có ghi mã hàng của công ty FPT, bên trong chứa 01 điện thoại di động Iphone 13 Promax 512 GB màu xanh (chưa qua sử dụng). Ngày 23/4/2022, C mang điện thoại đến cửa hàng 26A Đặng Dung bán cho anh Nguyễn Văn Tuấn với giá 30.000.000 đồng. Cả 2 lần thanh toán, anh Tuấn chuyển khoản từ tài khoản ngân hàng Techcombank số 19034326627014 đến tài khoản ngân hàng VIB số 812082017 của C. Toàn bộ số tiền bán điện thoại, C đã tiêu xài cá nhân hết.

Đầu tháng 5/2022, bưu cục Hoàn Kiếm kiểm tra, phát hiện bị mất 03 kiện hàng, C đã nhận toàn bộ hành vi trộm cắp như nêu trên.

Anh Đinh Minh Q khai nội dung phù hợp với Lê Linh C. C đã bồi thường cho bưu cục 21.000.000 đồng, anh quyền yêu cầu C khắc phục đầy đủ toàn bộ phần thiệt hại còn lại cho Bưu cục Hoàn Kiếm. Ngày 04/8/2022, anh quyền làm đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Lê Linh C.

Anh Nguyễn Huy Toán và anh Nguyễn Văn Tuấn khai phù hợp với lời khai của C và nhận dạng được là Lê Linh C là người đã bán điện thoại. Khi mua, anh Toán và anh Tuấn không biết điện thoại C bán là do trộm cắp mà có và đã bán lại cho khách (không rõ lai lịch) – hiện không thu hồi được. Xét thấy không liên quan đến vụ án nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh Toán và anh Tuấn.

Tại bản cáo trạng số: 210/CT-VKS ngày 05/10/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm đã truy tố Lê Linh C về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên tòa:

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình.

Bị hại trình bày đã nhận được tổng số tiền bồi thường của C là 21 triệu đồng.

Đến ngày 13/10/2022, gia đình C tiếp tục bồi thường thêm 03 triệu đồng. Tổng số tiền bồi thường đã nhận là 24 triệu đồng. Bị hại có yêu cầu bị cáo phải tiếp tục bồi thường số tiền còn thiếu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Lê Linh C đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị giữ nguyên nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự.

- Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo C mức án từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2022.

- Về hình phạt bổ sung: Không

- Về dân sự: Buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho bị hại số tiền còn thiếu. Bà Ngân (mẹ đẻ bị cáo) không yêu cầu Tòa án giải quyết đối với số tiền 03 triệu đồng bà đã bồi thường thêm thay cho bị cáo nên HĐXX không xem xét.

- Về vật chứng: Không

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về thủ tục: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hoàn Kiếm, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Hoàn Kiếm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn nhận tội và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản sự việc, lời khai của người làm chứng, lời khai của bị hại, biên bản tạm giữ đồ vật và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã cấu thành tội:

“Trộm cắp tài sản”. Tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng: Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có tác động đến gia đình để bồi thường thêm cho bị hại, bản thân bị cáo cũng đã tự bồi thường cho bị hại, khắc phục một phần hậu quả nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên là tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội đã thể hiện thái độ coi thường pháp luật. Xét tính chất và mức độ hành vi phạm tội cùng nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án tù trong khung hình phạt nhằm cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt HĐXX cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo vì bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nhận định ở trên.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Không [8] Về dân sự: Buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho bị hại là Công ty cổ phần đầu tư thương mại phát triền Nhất Tín số tiền 69.650.000 đ (Sáu mươi chín triệu, sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

Bà Cù Thị Bích Ngân không yêu cầu giải quyết đối với số tiền 03 triệu đồng bà đã nộp bồi thường cho bị hại thay bị cáo nên HĐXX không giải quyết.

[9] Về các vấn đề khác: Anh Nguyễn Huy Toán và anh Nguyễn Văn Tuấn khi mua điện thoại của C không biết điện thoại C bán là do trộm cắp mà có và đã bán lại cho khách (không rõ lai lịch) – hiện không thu hồi được. Xét thấy không liên quan đến vụ án nên HĐXX không giải quyết.

[10] Đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về nhân thân của bị cáo, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, về mức hình phạt, về hình phạt bổ sung, về xử lý vật chứng và về vấn đề khác là có căn cứ.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lê Linh C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Linh C 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/7/2022.

2. Về dân sự: Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 584, Điều 585, 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Lê Linh C phải bồi thường cho Công ty cổ phần đầu tư thương mại phát triển Nhất Tín số tiền 69.650.000 đ (Sáu mươi chín triệu, sáu trăm năm mươi nghìn đồng) Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và bên có quyền có đơn yêu cầu thi hành án thì bên phải thi hành còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian và khoản tiền chậm thi hành án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 3.482.500 (Ba triệu, bốn trăm tám mươi hai nghìn, năm trăm đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 210/2022/HS-ST

Số hiệu:210/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về