TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BUÔN MA THUỘT, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 210/2022/HS-ST NGÀY 02/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 02/8/2022, tại Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 206/2022/TLST-HS ngày 14/7/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 215/2022/QĐXXST-HS ngày 19/7/2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Hồng C - Sinh ngày: 18/01/1994, tại: Tỉnh Đắk Lắk.
Nơi cư trú: Tổ dân phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; con ông: Phạm Hồng S, sinh năm: 1966 và bà: Nguyễn Thị Kim H, sinh năm: 1976, có vợ là Trần Diệu H1, sinh năm 1996, có 01 con sinh năm: 2016, hiện đều trú tại: Tổ dân phố A, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Nhân thân: Ngày 03/7/2018, theo Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 81/2018/QĐ-TA, đến ngày 28/5/2019 chấp hành xong.
Tiền án: 02 tiền án.
- Ngày 07/01/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tuyên phạt 09 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.
- Ngày 22/6/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tuyên phạt 10 tháng tù, về tội Trộm cắp tài sản. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù, chưa được xóa án tích.
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Buôn Ma Thuột, kể từ ngày 09/6/2022 cho đến nay, hiện có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Lương Văn Q, địa chỉ: Số A đường T, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Nguyễn Duy B, địa chỉ: Số A đường T, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt) 2. Bà Nguyễn Thị Kim H2 và ông Phạm Hồng S, địa chỉ: Số A đường T, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt) 3. Bà Nguyễn Thị Q, trú tại: Số A đường T, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt) 4. Bà Nguyễn Thị C1, địa chỉ: Số A đường T, phường N, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Hồng C là người đã có tiền án, về tội Trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích, mà còn tiếp tục phạm tội, cụ thể: Khoảng 07 giờ ngày 08/6/2022, Phạm Hồng C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu NEWVMC, kiểu dáng xe Ware, màu đen, số máy VLF1P52FMH360106322, số khung RNAWCH1NA61002322, không gắn biển số, đi dạo ở Hẻm B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk tìm xem nhà nào để tài sản sơ hở thì trộm cắp. Khi đi đến trước địa chỉ T, phường N, thành phố B của gia đình ông Lương Văn Q (sinh năm: 1980), C thấy ở gần chuồng gà phía sau nhà có 01 xe rùa bằng kim loại. Quan sát thấy không có ai trông coi, C dựng xe mô tô bên ngoài, sau đó đi vào lấy trộm chiếc xe rùa, rồi đi tìm tiệm mua bán phế liệu để bán. Khi đi đến tiệm thu mua phế liệu ở địa chỉ B của ông Nguyễn Duy B (sinh năm: 1980), C đem xe rùa vào bán cho anh B được số tiền 120.000 đồng. Sau đó, C điều khiển xe mô tô đến khu vực nghĩa trang đường P và dùng số tiền 120.000 đồng mua ma túy từ 01 nam thanh niên (chưa rõ nhân thân, lai lịch) sử dụng. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ông Lương Văn Q đã trình báo cơ quan Công an.
Tại Kết luận định giá tài sản số 92/KL-HĐĐGTS ngày 17/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B xác định: 01 xe rùa, đã qua sử dụng, mua năm 2020, có đặc điểm: Chiều cao 60 cm, chiều dài 140 cm, chiều rộng 63 cm, phần khung xe và thùng xe đều làm bằng kim loại, được sơn bên ngoài màu đỏ, bánh xe bằng cao su, trị giá 180.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 224/CT-VKS ngày 13/7/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Phạm Hồng C về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 BLHS.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đúng theo nội dung Cáo trạng mà đại diện Viện kiểm sát đã công bố.
Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự:
- Xử phạt bị cáo Phạm Hồng C từ 09 tháng đến 12 tháng tù.
- Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Đối với 01 chiếc xe rùa bằng kim loại, được sơn bên ngoài màu đỏ, bánh xe bằng cao su, đã qua sử dụng: Quá trình điều tra xác định đây là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của ông Lương Văn Q. Ngày 10/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe rùa cho ông Lương Văn Q quản lý, sử dụng.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu NEWVMC, kiểu dáng xe Ware, màu đen, không gắn biển số: Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bị cáo Phạm Hồng C, sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
Sau khi nhận lại tài sản, ông Lương Văn Q không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Bà Nguyễn Thị Kim H, là mẹ bị cáo đã bồi thường cho ông Nguyễn Duy B số tiền 120.000 đồng. Ông Nguyễn Duy B không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.
Các vấn đề khác đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận như nội dung tại bản Cáo trạng.
Bị cáo không tranh luận nội dung gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Hồng C đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết như bản cáo trạng đã truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án về thời gian địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội và tài sản đã chiếm đoạt. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở nhận định: Bị cáo Phạm Hồng C là người bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nhưng vào khoảng 07 giờ ngày 08/6/2022, tại địa chỉ B lại tiếp tục trộm cắp 01 chiếc xe rùa của ông Lương Văn Q, trị giá 180.000 đồng. Do đó Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột truy tố bị cáo Phạm Hồng C về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật. Cụ thể:
Điều 173 Bộ luật hình sự quy định như sau:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
...
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi và muốn có tiền tiêu xài nên đã cố ý phạm tội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét, cân nhắc và áp dụng mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả phạm tội đã thực hiện, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo gây thiệt hại về tài sản không lớn, thành khẩn khai báo, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường 120.000đồng, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
Từ những nhận định trên, HĐXX xét thấy bị cáo là người có nhân thân xấu, năm 2018 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, có 02 tiền án: Năm 2020 bị tuyên phạt 09 tháng tù và năm 2021 bị tuyên phạt 10 tháng tù đều về tội “Trộm cắp tài sản”, tuy nhiên bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một khoảng thời gian mới có đủ điều kiện và thời gian cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.
[5] Các biện pháp tư pháp:
- Về xử lý vật chứng:
Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe rùa cho ông Lương Văn Q quản lý, sử dụng.
Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu NEWVMC, kiểu dáng xe Ware, màu đen, không gắn biển số: Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của bị cáo Phạm Hồng C, sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội, nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.
- Về bồi thường thiệt hại: Sau khi nhận lại tài sản, ông Lương Văn Q không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Bà Nguyễn Thị Kim H, là mẹ bị cáo đã bồi thường cho ông Nguyễn Duy B số tiền 120.000 đồng. Ông Nguyễn Duy B không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.
[6] Các vấn đề khác:
Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của bị cáo Phạm Hồng C: Ngày 08/7/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột ra quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo, là phù hợp.
Đối với ông Nguyễn Duy B là người mua chiếc xe rùa mà bị cáo Phạm Hồng C trộm cắp của ông Lương Văn Q. Tuy nhiên, anh B không biết đây là tài sản do bị cáo Phạm Hồng C phạm tội mà có. Do đó, Cơ quan điều tra không đề cập xử lý đối với ông Nguyễn Duy B, là phù hợp.
Đối với người bán chất ma túy cho bị cáo Phạm Hồng C: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên đã tách ra khỏi vụ án tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau, là phù hợp.
[7] Về án phí: Bị cáo Phạm Hồng C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Tuyên bố bị cáo Phạm Hồng C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Xử phạt bị cáo Phạm Hồng C: 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 09/6/2022.
[2] Các biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Tịch thu, sung ngân sách nhà nước đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu NEWVMC, kiểu dáng xe Ware, màu đen, số máy VLF1P52FMH360106322, số khung RNAWCH1NA61002322, không gắn biển số.
(Đặc điểm theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/7/2022 giữa Công an thành phố Buôn Ma Thuột với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B)
[3] Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Phạm Hồng C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 210/2022/HS-ST
Số hiệu: | 210/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Buôn Ma Thuột - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 02/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về