Bản án về tội trộm cắp tài sản số 205/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN H, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 205/2023/HS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận H, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 173/2023/TLST- HS ngày 07 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 183/2023/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 63 ngày 04/8/2023 đối với:

1. Bị cáo: Nguyễn Hữu H, S năm 1963; Giới tính: Nam; HKTT: Thành phố L, tỉnh L; nơi cư trú: Không nơi ở cố định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 01/10; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; con ông Nguyễn Hữu T (Liệt sỹ) và bà Nguyễn Thị K (đã chết); Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; Vợ: Trần Thị T, S năm 1969; có một con S năm 2009; Tiền án, tiền sự: Không; theo Danh chỉ bản số 289 do Công an quận H lập ngày 03/4/2023; Nhân thân:

- Bản án số 34/1987/HSST ngày 20,21/2/1987 và 05/3/1987 của Tòa án nhân dân thành phố H xử phạt 10 năm tù về tội Trộm cắp tài sản của công dân và 03 năm tù về tội Trộm cắp tài sản XHCN. Tổng hợp hình phạt này với hình phạt còn lại của của Bản án số 88 ngày 6/4/1984 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm. Buộc chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 15 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/4/1985. Đã được xóa án.

- Bản án số 152/HSST ngày 18/9/1990 của Tòa án nhân dân tỉnh Hải H4 xử phạt 10 năm tù về tội Trộm cắp tài sản công dân, 04 năm tù về tội trốn khỏi nơi giam. Tổng hợp hình phạt này với hình phạt còn lại của của Bản án số 34/1987/HSST ngày 20,21/2/1987 và 05/3/1987 của Tòa án nhân dân thành phố H. Buộc chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 20 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/4/1990. Ra trại ngày 03/8/2007. Đã được xóa án.

- Bản án số 88/HSST ngày 6/4/1984 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, H xử phạt 04 năm tù về tội Trộm cắp TSCD và tàng trữ vũ khí trái phép. Đã được xóa án.

- Bản án số 162/HSST ngày 21/12/2010 của Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh L xử phạt 02 năm 6 tháng tù tội Trộm cắp tài sản. Ra trại ngày 10/12/2012. Đã được xóa án.

Bị bắt tạm giam từ ngày 26/3/2023. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam số 2, Công an Thành phố H. Có mặt.

2. Bị hại: - Chị Hán Thị Thu Tr, S năm 1994. Vắng mặt.

Trú tại: Số 8 ngõ 197 đường H, phường H, quận H, Thành phố H.

- Chị Chử Thị V, S năm 1994. Vắng mặt.

Trú tại: Thôn C, thị trần Văn Giang, huyện Văn Giang, tỉnh H4 Yên.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Chị Trần Thị S, S năm 1971. Vắng mặt.

Trú tại: Khối Tân V, thành phố V, tỉnh N.

- Chị Trần Thị Thúy H, S năm 1973. Vắng mặt.

Trú tại: Phường Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, H.

- Anh Lê Đức H, S năm 1963. Vắng mặt.

Trú tại: thị trấn Yên Viên, huyện Gia Lâm, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố H truy tố:

Khoảng 20 giờ 00’ ngày 31/03/2015, Nguyễn Hữu H, Trần Thị S (SN: 1971; Nơi ĐKHKTT: Khối Tân V, TP V, N), Lê Đức H (SN: 1963; Nơi ĐKHKTT: TT Yên Viên, Gia Lâm, H) và H1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Khi đi, H2 chở H1 trên 01 xe máy nhãn hiệu MAXWAY, BKS: 99L1- xxxx, H4 chở S đi 01 xe máy nhãn hiệu SUZUKI VIVA, BKS: 29N7 – xxxx đi từ Cầu Chui, B, H đến khu vực Chợ Đêm phường Vĩnh H4, H, H. Tại đây, H4, S, H2 và H1 đi vòng quanh xem có ai sơ hở tài sản thì trộm cắp. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, S phát hiện có chị Nguyễn Thị Kim T (SN: 1994; Nơi ĐKHKTT: Khu 7 xã Thọ Văn, Tam Nông, P) đeo túi xách đứng ở gian hàng quần áo, bên trong có để 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu LENOVO A859, màu trắng của bạn chị T là chị Hán Thị Thu Tr (SN: 1994; Nơi ĐKHKTT: Số 8 ngõ 197 đường H, Hoàng Văn Th, H, H) để nhờ trong túi xách. S tiếp cận và dùng tay mở túi xách chị T lấy 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu LENOVO A859. Sau đó, S đút chiếc điện thoại này vào nách bên phải của H2 rồi H2 bỏ đi. Lúc này, S bị chị T phát hiện đuổi theo đòi điện thoại của mình nhưng S bảo không lấy và tiếp tục bỏ đi ra chỗ H4. S đưa cho H4 túi xách của mình thì bị chị T và người dân giữ lại kiểm tra nhưng không phát hiện điện thoại của chị T trong túi xách của S. Chị T và người dân đã báo cơ quan công an đưa S và H4 về trụ sở Công an phường Vĩnh H4 làm rõ vụ việc. Sau khi bị phát hiện, H1 và H2 bỏ chạy ra khỏi Chợ Đêm cùng chiếc điện thoại của chị T. H1 gọi điện hẹn gặp một người phụ nữ (không rõ nhân thân, lai lịch) để bán điện thoại. H2 chở H1 đi đến khu vực ngã ba Định Công - Giải Phóng. Tại đây, H1 gặp và bán chiếc điện thoại trộm cắp được cho một phụ nữ khoảng 40 tuổi giá 1.400.000 đồng. Sau khi cầm tiền thì H2 chở H1 bỏ đi. H1 đưa cho H2 800.000 đồng, trong đó 500.000 đồng nhờ H2 đưa lại cho S và H4 khi nào S và H4 về, còn H1 giữ 600.000 đồng. H2 chở H1 về đến khu vực chân cầu B – H rồi H1 xuống xe và bỏ đi. Sau khi về nhà H2 đã tiêu xài cá nhân hết 400.000 đồng.

Tại trụ sở công an, thu giữ của Trần Thị S: 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 301, màu đen, IMEI: 355516058270204, IMEI2: 355516058270201 và thu giữ của Nguyễn Hữu H: 01 điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG GTI9082, màu đen, IMEII: 356150051868282, IMEI2: 356201051868283; 01 thẻ nhớ Mircro SD, 02Gb, màu đen; 01 túi xách nữ, màu đen kích thước 25x20x8cm, có một quai đeo, bên trong có 01 ví nữ nhãn hiệu Bailini, màu nâu; 01 xe máy nhãn hiệu SUZUKI VIVA, màu xanh xám, BKS: 29N7 – xxxx, số máy: 107593, số khung: 107593; ½ tích kê lô đề ghi ngày 27/3 đã bị xé dọc, có nội dung Đề 66x5, xiên 3 88-65-33.

Cơ quan điều tra tiến hành dẫn giải Nguyễn Hữu H đi xác định đối tượng Lê Đức H tại bốt chắn tàu đường Phan Đăng Lưu, Hà Huy Tập, TT Yên Viên, huyện Gia Lâm, thành phố H và đưa H2 về cơ quan công an làm việc. Thu giữ của H2: 01 điện thoại di động nhãn hiệu LENOVO, màu đen, IMEI1: 862635020928743, IMEI2: 862635020928750; 01 xe máy nhãn hiệu MAXWAY, BKS: 99L1 – xxxx, số khung: 003453, số máy: 003453; Số tiền 400.000 đồng;

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Hữu H, Lê Đức H và Trần Thị S khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như trên. Ngoài ra, H4, H2 và S khai còn cùng nhau thực hiện một vụ trộm cắp tài sản khác vào khoảng 06 giờ 00’ ngày 29/03/2015, Trần Thị S rủ H1 (không rõ nhân thân, lai lịch) và Nguyễn Hữu H đi trộm cắp tài sản tại sân vận động đền Hóa Dạ Trạch, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh H4 Yên. Khi đến nơi, H4 đứng ngoài, H1 và S vào trong Hội, H1 trộm cắp được 01 điện thoại nhãn hiệu SKY VEGA A850 của chị Chử Thị V (SN: 1994; Nơi ĐKHKTT: Thôn Công Luận 2, TT Văn Giang, huyện Văn Giang, tỉnh H4 Yên). Sau đó, cả nhóm về khu vực Yên Viên, huyện Gia Lâm, thành phố H ăn cơm. H1 đưa cho H4 chiếc điện thoại đã trộm cắp thì H4 lấy thẻ nhớ trong máy điện thoại ra để giữ lại và tháo sim lắp trong máy rồi vứt đi. Sau đó, H1 gọi cho Lê Đức H và nhờ H2 bán điện thoại mà cả nhóm vừa trộm cắp được. Qua trao đổi, H2 biết được chiếc điện thoại này do trộm cắp mà có. Sau đó, H2 mang điện thoại đến chợ Hòa Bình, H bán cho chị Trần Thị Thúy H (SN : 1973; Nơi ĐKHKTT:

146 Minh Khai, Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, thành phố H) được 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Chị H5 không biết điện thoại H2 bán do trộm cắp mà có. Sau đó, chị H5 bán chiếc điện thoại này cho một người không quen biết với giá 1.100.000 đồng (một triệu một trăm nghìn đồng). Tài sản hiện không thu hồi được.

Tại cơ quan điều tra, bị hại là chị Hán Thị Thu Tr và chị Chử Thị V trình bày nội dung vụ việc như trên. Đại diện gia đình của Nguyễn Hữu H đã bồi thường cho chị T, chị V số tiền 1.000.000 đồng/người. Chị T, chị V không có yêu cầu đề nghị gì khác về bồi thường dân sự và có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho H4.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H tiến hành trưng cầu định giá tài sản đối với 02 chiếc điện thoại bị trộm cắp. Tại công văn số 89/HĐĐG-CV ngày 15/05/2015 của Hội đồng định giá tài sản quận H trả lời: Đối với tài sản trưng cầu định giá gồm 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Lenovo A859 màu trắng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sky vega A850 màu đen (tài sản không thu hồi được). Căn cứ theo Mục 2 Thông tư số 55/2006/TT-BTC ngày 22/6/2006 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 26/2005/NĐ-CP, đối với tài sản đã qua sử dụng thì “Hội đồng định giá phải kiểm định, đánh giá chất lượng còn lại của tài sản, hàng hoá sau khi đã tính phần hao mòn đã qua sử dụng để xác định giá trị còn lại của tài sản đó". Do không có đủ căn cứ để kiểm định, xác định được giá trị, chất lượng còn lại của tài sản nên không tiến hành định giá được.

Đối với Nguyễn Hữu H: Bản thân H4 có 04 tiền án, trong đó có 03 tiền án năm 1987, 1990, 2010 đều về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích, vì vậy mặc dù không định giá được tài sản trộm cắp (theo công văn số 89/HĐĐG- CV ngày 15/05/2015 của Hội đồng định giá tài sản quận H), nhưng hành vi của Nguyễn Hữu H cấu thành tội Trộm cắp tài sản. Ngày 12/8/2015, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Hữu H về tội Trộm cắp tài sản. Do quá trình điều tra, Nguyễn Hữu H bỏ trốn, ngày 11/12/2015, cơ quan điều tra ra Quyết định truy nã số 03/CSHS đối với Nguyễn Hữu H, Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự, tạm đình chỉ điều tra đối với bị can Nguyễn Hữu H.

Ngày 26/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L bắt truy nã Nguyễn Hữu H theo quyết định truy nã số 03 ngày 11/12/2015 của cơ quan CSĐTCAQ H. Ngày 28/3/2023, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H ra quyết định đình nã, quyết định phục hồi điều tra vụ án hình sự, phục hồi điều tra bị can đối với Nguyễn Hữu H.

Ngày 15/4/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H tiến hành định giá lại tài sản đối với 02 chiếc điện thoại bị trộm cắp. Tại bản kết luận định giá tài sản số 114/KL-HĐĐGTS ngày 04/05/2023 của Hội đồng định giá tài sản quận H kết luận: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SKY VEGA A850, màu đen, tài sản đã qua sử dụng có giá trị là 2.100.000 đồng; 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu LENOVO A859, màu trắng, tài sản đã qua sử dụng có giá trị là 2.800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị trộm cắp là 4.900.000 đồng.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu MAXWAY, BKS: 99L1 – xxxx thu giữ của H2, H2 khai của H2 dùng làm phương tiện đi lại, ngày 31/03/2015, H2 sử dụng chiếc xe này chở H1 đi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra xác định, chủ xe là bà Giáp Thị Đức (SN: 1978, HKTT: Đông Ngàn, Từ Sơn, Bắc Ninh), chiếc xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Bà Đức trình bày đã bán chiếc xe này cho người đàn ông không quen biết năm 2010. Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LENOVO, màu đen thu giữ của H2, H2 khai liên lạc với H1 để rủ nhau đi trộm cắp tài sản.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu SUZUKI VIVA, màu xanh xám, BKS: 29N7 – xxxx thu giữ của H4, H4 sử dụng để đèo S đi trộm cắp tài sản. Quá trình điều tra xác định, chủ xe là ông Lê Đức Th (SN: 1965, HKTT: 99 tổ 2 Đức Giang, Thượng Thanh, B, H), chiếc xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Ông Th cho H4 chiếc xe máy này do ông Th đã không còn sử dụng nữa. Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG GT – I9082, màu đen thu giữ của H4, là tài sản cá nhân của H4. Đối với ½ tích kê lô đề ghi ngày 27/3 đã bị xé dọc, có nội dung Đề 66x5, xiên 3 88-65-33 là tích kê H4 nhặt được ở ngoài đường, không sử dụng vào mục đích đánh bạc, không nhớ địa điểm nhặt được tích kê.

Đối với 01 thẻ nhớ Mircro SD, 02Gb, màu đen là thẻ nhớ trong chiếc điện thoại 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SKY VEGA A850, màu đen của chị Chử Thị V bị nhóm đối tượng trộm cắp tại sân vận động đền Hóa Dạ Trạch – xã Dạ Trạch – Khoái Châu - H4 Yên ngày 29/03/2015. Do không thu hồi được điện thoại và đã nhận bồi thường nên chị V không nhận lại chiếc thẻ nhớ trên.

Đối với 01 túi xách nữ, màu đen kích thước 25x20x8cm, có một quai đeo, bên trong có 01 ví nữ nhãn hiệu Bailini, màu nâu là tài sản của Trần Thị S, không liên quan đến vụ án. Ngày 22/06/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H ra quyết định xử lý vật chứng số 86 trả lại 01 túi xách nữ, màu đen kích thước 25x20x8cm, có một quai đeo, bên trong có 01 ví nữ nhãn hiệu Bailini, màu nâu cho Trần Thị S.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 301, màu đen, IMEI: 355516058270204, IMEI2: 355516058270201, thu giữ của Trần Thị S, S sử dụng để liên lạc thống nhất trộm cắp với H1.

Đối với hành vi của Trần Thị S, Lê Đức H và H1: Căn cứ theo công văn số 89/HĐĐG-CV ngày 15/05/2015, Hội đồng định giá tài sản quận H không có đủ căn cứ để kiểm định, xác định được giá trị, chất lượng còn lại của tài sản nên không tiến hành định giá được đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SKY VEGA A850, màu đen, tài sản đã qua sử dụng và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu LENOVO A859, màu trắng, tài sản đã qua sử dụng mà S, H2 và H1 trộm cắp. Do đó, không đủ căn cứ xác định S, H1 và H2 có hành vi Trộm cắp tài sản. Sau khi bắt truy nã đối với Nguyễn Hữu H, cơ quan điều tra tiến hành định giá lại đối với tài sản bị trộm cắp. Tại bản kết luận định giá tài sản số 114/KL- HĐĐGTS ngày 04/05/2023 của Hội đồng định giá tài sản quận H kết luận được 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SKY VEGA A850, màu đen, tài sản đã qua sử dụng có giá trị là 2.100.000 đồng và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu LENOVO A859, màu trắng, tài sản đã qua sử dụng có giá trị là 2.800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 4.900.000 đồng. Tuy nhiên, đến nay, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Thị S, Lê Đức H và H1 đã hết. Do đó, không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với S, H2 và H1.

Tại bản cáo trạng số 180/CT-VKS-HM, ngày 06/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H tội Trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[2] Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Hữu H thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận Viện kiểm sát nhân dân quận H, Thành phố H truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình và hòa nhập xã hội.

Kiểm sát viên nắm quyền công tố tại phiên tòa qua phần xét hỏi kiểm sát viên nhận thấy việc đóng án phí và các quyết định khác trong các bản án năm 1984, năm 1987, năm 1990 của Nguyễn Hữu H và tại các biên bản xác minh thi hành án của bị cáo tại Chi cục thi hành án dân sự đều thể hiện không xác minh được thông tin, không còn lưu trữ hồ sơ, tại phiên tòa bị cáo khai đã đóng đủ án phí và các quyết định khác của các bản án trên, tuy nhiên do thời gian đã lâu bị cáo không còn lữu trữ các biên lai, áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo xác định các tiền án năm 1984, năm 1987, năm 1990 đã được xóa án tích; Kiểm sát viên đề nghị: Rút một phần quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H không áp dụng tình tiết định khung tăng nặng “tái phạm nguy hiểm”, đề nghị xét xử bị cáo Nguyễn Hữu H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội; nhân thân của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hồi đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu H từ 14 tháng đến 18 tháng tù.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo. Về tang vật của vụ án đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 thẻ nhớ Mircro SD, 02Gb, màu đen.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu MAXWAY 100-1 màu nâu, BKS: 99L1 – xxxx; SK: RMSDCGBHG7H003453,SM: VHGSL150FMG003453 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LENOVO, màu đen, Imei1: 862635020928743,Imei2: 862635020928750 thu giữ của Lê Đức H.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 400.000đ thu giữ của Lê Đức H theo giấy nộp tiền vào tài khoản Chi cục thi hành án dân sự quận H ngày 11/12/2015.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SUZUKI VIVA, màu xanh xám, BKS: 29N7 – xxxx, SM: 107593, SK: 107593 và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG GT – 19082, màu đen, Imei1: 356150051868282. Imei2: 356201051868283 thu giữ của Nguyễn Hữu H.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 301, màu đen, Imei1: 355516058270204, Imei2: 355516058270201, thu giữ của Trần Thị S.

- Buộc bị cáo Nguyễn Hữu H phải truy nộp ngân sách nhà nước số tiền hưởng lợi bất hợp pháp từ việc bán chiếc điện thoại trộm cắp mà có là 150.000đ

- Buộc chị Trần Thị Thúy H phải truy nộp ngân sách nhà nước số tiền hưởng lợi bất hợp pháp 100.000đ.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được bồi thường và không có yêu cầu gì, nên không xét.

[3] Phần tranh luận tại phiên tòa: Bị cáo thừa nhận Kiểm sát viên luận tội đối với hành vi phạm tội của mình là đúng người đúng tội, đúng pháp luật, nên không có tranh luận với Kiểm sát viên. Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt và đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét về hành vi vi phạm bị truy tố:

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Hữu H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với nội dung cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của bị cáo là thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của bị hại; lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; lời khai của người làm chứng, vật chứng thu được của vụ án, kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Đủ cơ sở kết luận:

Ngày 31/03/2015, Nguyễn Hữu H, Trần Thị S, Lê Đức H và đối tượng tên H1 (chưa rõ nhân thân, lai lịch) rủ nhau cùng đi trộm cắp tài sản. Khi đi, H2 chở H1 trên 01 xe máy nhãn hiệu MAXWAY, BKS: 99L1- xxxx, H4 chở S đi 01 xe máy nhãn hiệu SUZUKI VIVA, BKS: 29N7 – xxxx đi từ Cầu Chui, B, H đến khu vực chợ Đêm phường Vĩnh H4, quận H, Khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, S phát hiện có chị Nguyễn Thị Kim T (S năm 1994; Nơi ĐKHKTT: Khu 7 xã Thọ Văn, huyện Tam Nông, tỉnh P) đeo túi xách đứng ở gian hàng quần áo, bên trong có để 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu LENOVO A859, màu trắng của bạn chị T là chị Hán Thị Thu Tr (S năm 1994; Nơi ĐKHKTT: Số 8 ngõ 197 đường H, phường H, quận H, H) để nhờ trong túi xách. S tiếp cận và dùng tay lén lút mở túi xách chị T lấy 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu LENOVO A859. Sau đó, S đút chiếc điện thoại này vào nách bên phải của H2 rồi H2 bỏ đi. S bị chị T phát hiện đuổi theo đòi điện thoại của mình nhưng S bảo không lấy và tiếp tục bỏ đi thì bị chị T và người dân giữ lại kiểm tra và báo cơ quan Công an phường đưa S và H4 về trụ sở Công an phường Vĩnh H4 làm rõ vụ việc. Tại đây bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội.

Ngoài hành vi phạm tội nêu trên bị cáo còn khai nhận khoảng 06 giờ 00’ ngày 29/03/2015, Trần Thị S rủ H1 và bị cáo Nguyễn Hữu H đi trộm cắp tài sản tại sân vận động đền Hóa Dạ Trạch, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, tỉnh H4 Yên. Khi đến nơi, H4 đứng ngoài, H1 và S vào trong Hội, H1 trộm cắp được 01 điện thoại nhãn hiệu SKY VEGA A850 của chị Chử Thị V (S năm 1994; Nơi ĐKHKTT: Thôn Công Luận 2, TT Văn Giang, huyện Văn Giang, tỉnh H4 Yên). Sau đó, cả nhóm về khu vực Yên Viên, huyện Gia Lâm, thành phố H ăn cơm. H1 đưa cho H4 chiếc điện thoại đã trộm cắp thì H4 lấy thẻ nhớ trong máy điện thoại ra để giữ lại và tháo sim lắp trong máy rồi vứt đi. Sau đó, H2 mang điện thoại đến chợ Hòa Bình, H bán cho chị Trần Thị Thúy H, S năm 1973; HKTT: 146 Minh Khai, Minh Khai, quận Hai Bà Trưng, thành phố H) được 1.000.000 đồng. Bị cáo H4 khai nhận được chia số tiền 150.000đ.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 114/KL-HĐĐGTS ngày 04/05/2023 của Hội đồng định giá tài sản quận H kết luận được 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SKY VEGA A850, màu đen, tài sản đã qua sử dụng có giá trị là 2.100.000 đồng và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu LENOVO A859, màu trắng, tài sản đã qua sử dụng có giá trị là 2.800.000 đồng. Tổng giá trị tài sản là 4.900.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Hữu H đã đủ yếu tố cấu thành “Tội trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã xem xét toàn bộ nội dung vụ án cũng như toàn bộ tài liệu chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử nhận thấy việc Viện kiểm sát nhân dân quận H tại phiên tòa rút một phần quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Hữu H về “tội trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự mà chỉ đề nghị xét xử bị cáo về “tội trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có cơ sở.

Bị cáo Nguyễn Hữu H là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, do đó cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận H, thành phố H truy tố bị cáo về tội danh và điều luật đã viện dẫn trên là đúng người đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

Xét hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu H là nguy hiểm cho xã hội. Xác định hành vi phạm tội của bị cáo là tội phạm ít nghiêm trọng, tài sản bị cáo chiếm đoạt là không lớn. Bị cáo đã lợi dụng sơ hở của các bị hại và không có ai quản lý tài sản, bị cáo đã lén lút trộm cắp 02 điện thoại di động trong đó 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SKY VEGA A850, màu đen và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu LENOVO A859, màu trắng là tài sản của chị Chử Thị V và chị Hán Thị Thu Tr. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội.

Về nhân thân: Bị cáo có 03 tiền án về tội trộm cắp tài sản và 01 tiền án trốn khỏi nơi giam; đã được xóa án tích, tuy nhiên phải coi là người có nhân thân xấu.

Về tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội hai lần nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ TNHS: Trong quá trình điều tra, cũng như tại phiên tòa bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị hại đã được bồi thường thiệt hại, không có yêu cầu gì về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bố đẻ bị cáo là liệt sỹ nên được áp dụng điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm cho bị cáo một phần hình phạt thể hiện sự khoan hồng của pháp luật;

Đối với tội phạm về xâm phạm quyền sở hữu, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Hội đồng xét xử, xét bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định, không có tài sản riêng lớn nên không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Biện pháp tư pháp và các vấn đề khác: Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu MAXWAY, BKS: 99L1 – xxxx và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LENOVO, màu đen và số tiền 400.000đ thu giữ của Lê Đức H; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SUZUKI VIVA, màu xanh xám, BKS: 29N7 – xxxx và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG GT – I9082, màu đen thu giữ của Nguyễn Hữu H;

01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 301, màu đen, IMEI: 355516058270204, IMEI2: 355516058270201 thu giữ của Trần Thị S liên quan đến hành vi phạm tội; 01 thẻ nhớ Mircro SD, 02Gb, màu đen không có giá trị sử dụng; do vậy khi giải quyết cần căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử lý. Do đó, Hội đồng xét xử nhận định, cần:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 thẻ nhớ Mircro SD, 02Gb, màu đen.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu MAXWAY, BKS: 99L1 – xxxx và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LENOVO, màu đen thu giữ của Lê Đức H.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 400.000đ thu giữ của Lê Đức H theo giấy nộp tiền vào tài khoản Chi cục thi hành án dân sự quận H ngày 11/12/2015.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SUZUKI VIVA, màu xanh xám, BKS: 29N7 – xxxx và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG GT – I9082, màu đen thu giữ của Nguyễn Hữu H.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 301, màu đen, IMEI: 355516058270204, IMEI2: 355516058270201, thu giữ của Trần Thị S.

Buộc bị cáo Nguyễn Hữu H phải truy nộp ngân sách nhà nước số tiền hưởng lợi bất hợp pháp từ việc bán chiếc điện thoại trộm cắp mà có là 150.000đ.

Đối với 01 túi xách nữ, màu đen kích thước 25x20x8cm, có một quai đeo, bên trong có 01 ví nữ nhãn hiệu Bailini, màu nâu là tài sản của Trần Thị S, không liên quan đến vụ án. Ngày 22/06/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận H ra quyết định xử lý vật chứng số 86 trả lại 01 túi xách nữ, màu đen kích thước 25x20x8cm, có một quai đeo, bên trong có 01 ví nữ nhãn hiệu Bailini, màu nâu cho Trần Thị S, là có cơ sở.

Đối với hành vi của Trần Thị S, Lê Đức H và đối tượng tên H1 có hành vi Trộm cắp tài sản. Tuy nhiên, đến nay, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Trần Thị S, Lê Đức H và H1 đã hết. Do đó, không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với S, H2 và H1 là có cơ sở.

Đối với chị Trần Thị Thúy H là người mua chiếc điện thoại là tài sản trộm cắp của H2 và đồng bọn với giá 1.000.000 đồng, chị H5 không biết điện thoại H2 bán do trộm cắp mà có. Sau đó, chị H5 bán chiếc điện thoại này cho một người không quen biết với giá 1.100.000 đồng, được hưởng lợi 100.000đ do đó cần buộc chị H5 nộp sung ngân sách nhà nước số tiền hưởng lợi bất hợp pháp này.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được bồi thường và không có yêu cầu gì, nên không xét.

[5] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38; Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Căn cứ vào Điều 89; 135, 136, 331, 333, 336, 337 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 23 và Điều 24 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hữu H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu H 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù, tính từ ngày bắt tạm giam ngày 26/3/2023.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được bồi thường, không có yêu cầu gì, nên không xét.

4. Biện pháp tư pháp:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 thẻ nhớ Mircro SD, 02Gb, màu đen.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu MAXWAY 100-1 màu nâu, BKS: 99L1 – xxxx; SK: RMSDCGBHG7H003453,SM: VHGSL150FMG003453 và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu LENOVO, màu đen, Imei1: 862635020928743,Imei2: 862635020928750 thu giữ của Lê Đức H.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tiền 400.000đ thu giữ của Lê Đức H theo giấy nộp tiền vào tài khoản Chi cục thi hành án dân sự quận H ngày 11/12/2015.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu SUZUKI VIVA, màu xanh xám, BKS: 29N7 – xxxx, SM: 107593, SK: 107593 và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG GT – 19082, màu đen, Imei1: 356150051868282. Imei2: 356201051868283 thu giữ của Nguyễn Hữu H.

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA 301, màu đen, Imei1: 355516058270204, Imei2: 355516058270201, thu giữ của Trần Thị S.

Toàn bộ vật chứng nêu trên, đang lưu giữ tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự quận H, Thành phố H, theo Phiếu nhập kho vật chứng, tài sản số NK2023-0217, ngày 26/7/2023.

- Buộc bị cáo Nguyễn Hữu H phải truy nộp ngân sách nhà nước số tiền hưởng lợi bất hợp pháp từ việc bán chiếc điện thoại trộm cắp mà có là 150.000đ (một trăm năm mươi nghìn đồng).

- Buộc chị Trần Thị Thúy H phải truy nộp ngân sách nhà nước số tiền hưởng lợi bất hợp pháp 100.000đ (Một trăm nghìn đồng).

5. Về án phí HSST: Bị cáo Nguyễn Hữu H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 205/2023/HS-ST

Số hiệu:205/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về