TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VẠN NINH, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 20/2024/HS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 03 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện V - tỉnh Khánh Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2024/TLST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2024/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2024 đối với:
1. Bị cáo Huỳnh Quốc H, sinh ngày 11 tháng 4 năm 2002 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn B, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Hữu Ng, sinh năm 1979 và bà Trần Thị T, sinh năm 1976.
Tiền án: Ngày 24/01/2022 bị cáo bị Toà án nhân dân huyện V, tỉnh H xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 07/2022/HSST ngày 24/01/2022. Ngày 17/3/2023, Chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 19/6/2022, nộp xong án phí hình sự, dân sự sơ thẩm. Ngày 08/8/2022, đã nộp xong tiền bồi thường.
Tiền sự: Ngày 30/3/2021, bị cáo bị Toà án nhân dân huyện V, tỉnh H áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 24 tháng, theo Quyết định số 22/QĐ-TA ngày 30/3/2021. Trong thời gian chấp hành cai nghiện bắt buộc đến ngày 17/3/2022, bị bắt đi chấp hành án phạt tù theo Bản án số 07/2022/HSST ngày 24/01/2022 của Toà án nhân dân huyện V.
Nhân thân: Bị Toà án nhân dân huyện V, tỉnh H áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 24 tháng, theo Quyết định số 73/QĐ-TA ngày 19/12/2023.
Bị cáo đang chấp hành tại Cơ sở cai nghiện ma tuý tỉnh H theo biên bản giao nhận người ngày 28/12/2023; có mặt.
2. Bị cáo Lê Văn T, sinh ngày 10 tháng 10 năm 2002 tại Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn B, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn K, sinh năm 1979 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1980; tiền sự: không.
Tiền án: Bị Toà án nhân dân huyện V, tỉnh H xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 07/2022/HSST ngày 24/01/2022. Ngày 19/01/2023, chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 26/7/2022, nộp xong án phí hình sự, dân sự sơ thẩm. Ngày 08/8/2022, đã thi hành xong phần dân sự.
Nhân thân:
+ Bị Công an xã Vạn Bình, huyện V, tỉnh H xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng, về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý” theo Quyết định số 09/QĐ-XPHC ngày 05/02/2021.
+ Bị Toà án nhân dân huyện V, tỉnh H áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 24 tháng, theo Quyết định số 52/QĐ-TA ngày 24/10/2023.
Bị cáo đang chấp hành tại Cơ sở cai nghiện ma tuý tỉnh H theo biên bản giao nhận người ngày 04/11/2023; có mặt.
- Bị hại: Ông Nguyễn Hoàng P, sinh năm: 1981; trú tại: Thôn T, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn Kh, sinh năm:
1979; trú tại: Thôn B, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 20/9/2023, Lê Văn T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Vemvipi (không gắn biển số) đến nhà Huỳnh Quốc H rồi rủ H đi trộm cắp tài sản thì H đồng ý. T điều khiển xe chở H đến khu vực Suối đá thuộc thôn Bình Lộc 2, xã Vạn Bình. Khi đi ngang qua trại rẫy của ông Nguyễn Hoàng P, thấy cổng trại đóng không có hàng rào, không người trông coi. T dấu xe trong bụi cây, rồi cùng H đi vào trong rẫy đến nhà kho của trại tìm tài sản trộm cắp. H dùng tay kéo bung lề cửa nhà kho rồi chui người vào trong lấy trộm 07 chiếc xoong, 02 cái puly sắt, 01 cái gùi mây. T đến gian bếp trộm 18 chiếc xoong, 04 nắp xoong bỏ vào bao đựng. Sau khi trộm được tài sản, T điều khiển xe chở H đi tìm chỗ bán. Trên đường đi về tại thôn P, xã V thì bị ông Nguyễn Hoàng P phát hiện đuổi theo và hô “Trộm, trộm”. H vứt bỏ 01 bao đựng tài sản trộm cắp xuống đường, cả hai chạy thêm một đoạn thì té ngã. Ông P đến giữ H lại, còn T bỏ chạy. Sau đó, ông P trình báo Công an.
Tại Kết luận định giá tài sản số 1099/KL-TCKH.TTHS ngày 24/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện V kết luận: 25 chiếc xoong bằng nhôm, 04 nắp xoong bằng nhôm, 01 chiếc gùi mây, 02 puly sắt, có tổng giá trị thiệt hại tài sản là 2.114.300 đồng.
Tại bản Cáo trạng số 12/CT-VKSVN ngày 01 tháng 02 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện V, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Huỳnh Quốc H và bị cáo Lê Văn T “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, tuyên phạt bị cáo Huỳnh Quốc H và bị cáo Lê Văn T mỗi bị cáo mức án từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; về trách nhiệm dân sự bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét; về vật chứng đã trả lại cho bị hại nên không xét; tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định.
Tại phiên toà, bị cáo Huỳnh Quốc H và bị cáo Lê Văn T đã khai nhận hành toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Trong lời nói sau cùng, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
[1.1] Bị hại đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của họ không hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[1.2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng là hợp pháp, đúng pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản và phù hợp với các chứng cứ tài liệu khác đã được thu thập hợp pháp có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ ngày 20/9/2023, tại trại rẫy của ông Nguyễn Hoàng P thuộc thôn B, xã V, huyện V, tỉnh H, Bị cáo Huỳnh Quốc H cùng Lê Văn T đã lén lút trộm cắp 25 chiếc xoong nhôm, 04 chiếc nắp xoong nhôm, 01 chiếc gùi mây, 02 puly sắt của ông Nguyễn Hoàng P. Tài sản bị trộm cắp được định giá là 2.114.300 đồng. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:
“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
[3] Từ các nhận định trên, có đủ căn cứ khẳng định Cáo trạng số 12/CT- VKSVN ngày 01 tháng 02 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện V truy tố các bị cáo Huỳnh Quốc H và Lê Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Đánh giá tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bị hại được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân, mất an ninh, trật tự tại địa phương. Các bị cáo là người có sức khỏe nhưng không chọn việc lao động chân chính để có thu nhập, mà lại lựa chọn hành vi trộm cắp tài sản của người khác để có tiền tiêu xài. Trong vụ án này các bị cáo thưc hiện tội phạm với vai trò là đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều là người thực hành tích cực, có vai trò như nhau.
Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Bị cáo Huỳnh Quốc H có nhân thân xấu: Bị cáo có một tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội, nên lần phạm tội này bị cáo bị áp dụng tình tiết tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tiền sự: Ngày 30/3/2021, bị cáo bị Toà án nhân dân huyện V, tỉnh H áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 24 tháng, theo Quyết định số 22/QĐ-TA ngày 30/3/2021. Ngoài ra, về nhân thân, hiện nay bị cáo đang phải chấp hành quyết định xử lý hành chính Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 24 tháng, theo Quyết định số 73/QĐ-TA ngày 19/12/2023 của Tòa án nhân dân huyện V.
Bị cáo Lê Văn T cũng có nhân thân xấu: Có một tiền án về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội, nên lần phạm tội này bị cáo bị áp dụng tình tiết tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.
Về nhân thân: Ngày 05/02/2021 bị cáo bị Công an xã Vạn Bình, huyện V, tỉnh H xử phạt vi phạm hành chính số tiền 750.000 đồng, về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma tuý” theo Quyết định số 09/QĐ-XPHC ngày 05/02/2021. Ngày 24/10/2023 bị cáo bị Bị Toà án nhân dân huyện V, tỉnh H áp dụng biện pháp đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 24 tháng, theo Quyết định số 52/QĐ-TA ngày 24/10/2023.
Căn cứ vào tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và nhân thân của các bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy cần xử phạt các bị cáo mức hình phạt nghiêm, cách ly các bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người lương thiện, cũng như phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; tài sản phạm tội có giá trị không lớn, tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật an tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình và xã hội.
[4] Về trách nhiệm dân sự:
[4.1] Bị hại ông Nguyễn Hoàng P đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu gì khác. Vì vậy, Hội đồng xét xử không xét.
[4.2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Lê Văn K: Ông là cha của bị cáo Lê Văn T và là chủ sở hữu xe máy mà bị cáo Lê Văn T sử dụng để đi trộm cắp tài sản. Ông Lê Văn K không biết bị cáo T sử dụng xe máy vào việc phạm tội nên không có căn cứ xem xét trách nhiệm hình sự đối với ông Khải. Ông K đã nhận lại tài sản là xe máy nên Hội đồng xét xử không xét.
[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Huỳnh Quốc H 01 (một) năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2. Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Văn T 01 (một) năm tù, về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Về trách nhiệm dân sự: Không xét phần trách nhiệm dân sự đối với bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do không yêu cầu.
4. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Huỳnh Quốc H và Lê Văn T, mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
5. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2024/HS-ST
Số hiệu: | 20/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Vạn Ninh - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về