Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN 20/2024/HS-PT NGÀY 17/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 01 năm 2024, tại Toà án nhân dân thành phố H xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 1018/2023/TLPT-HS ngày 18 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo Trần Văn V do có kháng cáo của bị cáo Trần Văn V đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 301/2023/HS-ST ngày 09 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trần Văn V - Sinh năm 2000; Giới tính: Nam; HKTT: thôn Y T, xã Y B, huyện V T, tỉnh V P; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo, đảng phái: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Sinh viên; Con ông Trần Văn T, sinh năm 1966 và bà Lê Thị Đ, Sinh năm 1971; Gia đình bị cáo có 03 người con, bị cáo là con thứ 2; Vợ con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/7/2023 đến nay tại Trại tạm giam số 2 - Công an thành phố H.

Có mặt tại phiên tòa.

Trong vụ án còn có bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Văn V đã thực hiện 02 lần trộm cắp tài sản và 02 lần Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Khoảng 07 giờ 25 phút ngày 08/7/2023, Trần Văn V đi bộ từ phòng trọ đến quán game “ACT Gaming”; Địa chỉ số 15 Nguyễn Văn T, phường M L, quận Đ, thành phố H để trộm cắp tài sản. Đến nơi, V đi quanh các phòng của quán game để tìm tài sản, khi lên tầng ba V phát hiện thấy 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 màu trắng của anh Nguyễn Khánh D đang cắm sạc ở trong góc phòng bên trái hướng từ cửa vào, quan sát thấy không có ai để ý nên V đã lén lút lấy chiếc điện thoại trên của anh D rồi bỏ về phòng trọ. Tại phòng trọ, V kiểm tra điện thoại thấy không có mật khẩu và phát hiện trên điện thoại của anh D có ứng dụng ví Zalopay, V liền đăng nhập vào ví Zalopay thì thấy có mật khẩu, do không biết mật khẩu nên V thao tác đổi mật khẩu tài khoản ví Zalopay của anh D. Sau khi đổi mật khẩu thành công, V đăng nhập vào ví Zalopay thì thấy tài khoản ví Zalopay của anh D có liên kết với số tài khoản 6666663335xxxx thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB Bank), chủ tài khoản Nguyen Khanh D, V tiếp tục nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của anh D trong tài khoản ngân hàng trên. V thao tác chuyển thử 100.000 đồng từ tài khoản ngân hàng trên của anh D vào ví Zalopay, một lúc sau ngân hàng gửi về số điện thoại của anh D một mã “OTP”, V nhập mã OTP trên vào và thực hiện việc chuyển thành công 100.000 đồng vào ví Zalopay. Thấy vậy, bằng thao tác trên V tiếp tục thực hiện chuyển 6 lần chuyển từ tài khoản ngân hàng của anh D, về ví Zalopay với số tiền 4.330.000 đồng.

Sau đó, V vào ứng dụng tin nhắn Messenger (được liên kết tài khoản mạng xã hội Facebook) trên điện thoại của anh D, V mạo danh là anh D nhắn tin qua ứng dụng Messenger cho chị Nguyễn Ngọc Ch (là người yêu của anh D) hỏi vay 2.000.000 đồng và nhắn tin cho anh Bùi Văn A (bạn của anh D) hỏi vay 1.000.000 đồng. Chị Ch, anh Bùi Văn A nghĩ là anh D hỏi vay tiền nên đồng ý và chuyển vào số tài khoản 666666333xxxx5, ngân hàng MB Bank của anh D số tiền trên. Thấy tiền về tài khoản ngân hàng của anh D, V tiếp tục chuyền số tiền 3.000.000 đồng đã chiếm đoạt của chị Ch và anh Anh về ví Zalopay.

Tổng số tiền V đã chiếm đoạt của anh D, chị Ch, anh Bùi Văn A là: 7.430.000 đồng, V đã chuyển số tiền này từ ví Zalopay vào tài khoản game và chơi game hết.

Lần thứ hai: Khoảng 06 giờ 20 phút ngày 09/7/2023, V đi bộ từ phòng trọ đến quán game “NK Gaming”; Địa chỉ: số 21 đường Nguyễn Văn Trỗi, phường M L, quận Đ, thành phố H để trộm cắp tài sản. Đến nơi, V đi lên tầng 2 thì phát hiện thấy anh Nguyễn Xuân Th đang ngồi chơi game và có để trên bàn 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi Note 11 Pro màu đen, cùng 01 chiếc ví da màu nâu. Thấy vậy, V bật máy tính bên cạnh để ngồi chơi game, nhằm lợi dụng khi nào anh Th sơ hở thì lấy trộm tài sản. Khoảng 08 giờ 20 phút cùng ngày, V thấy anh Th ngủ tại bàn chơi game, quan sát không có ai, V liền lén lút lấy trộm 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi Note 11 Pro màu đen, cùng 01 chiếc ví da màu nâu của anh Th rồi bỏ về phòng trọ. Tại phòng trọ, V kiểm tra chiếc ví phát hiện bên trong có một thẻ sinh viên tích hợp với tài khoản ngân hàng BIDV mang tên anh Th và kiểm tra điện thoại thì thấy có cài mật khẩu. V tháo sim điện thoại đang lắp trên máy điện thoại của anh Th lắp sang điện thoại của V, sau đó vào ứng dụng ví Zalopay trên điện thoại của V đăng nhập tài khoản ví Zalopay, được liên kết số điện thoại 0915772975 của anh Th, do không biết mật khẩu nên V thao tác đổi mật khẩu tài khoản ví Zalopay của Thành. Đổi mật khẩu thành công, V đăng nhập vào tài khoản ví Zalopay, thấy tài khoản ví Zalopay của anh Th chưa liên kết đồng bộ tài khoản ngân hàng, V liền thao tác liên kết số tài khoản 2221000313xxxx, ngân hàng BIDV của anh Th được tích hợp trên thẻ sinh viên nhằm chiếm đoạt tiền trong tài khoản ngân hàng của anh Th. Sau khi liên kết và đồng bộ thành công tài khoản ngân hàng, V thực hiện thao tác chuyển 11 lần tiền từ tài khoản ngân hàng của anh Th sang tài khoản ví Zalopay, tổng số tiền là 9.590.000 đồng, V tiếp tục chuyển 1.000.000 đồng từ tài khoản ví Zalopay sang tài khoản game rồi chơi game hết. Số tiền còn lại V muốn chuyển về tài khoản cá nhân của V nạp chơi game và lấy tiền mặt tiêu sài, nhưng do sợ bị phát hiện V đi ra khu vực phường M L gặp và chuyển nhờ vào tài khoản ngân hàng của một người lái xe ôm (không biết, tên tuổi địa chỉ) số tiền 8.590.000 đồng, người này đưa lại cho V 8.590.000 đồng tiền mặt, rồi được V trả công 190.000 đồng. Tiếp đó, V đi đến quán sửa điện thoại “T Mobile”; Địa chỉ: số 2 Ao Xóm Đông, tổ dân phố 8, phường M L, quận Đ, thành phố H nhờ anh Nguyễn Viết T chuyển 4.000.000 đồng vào số tài khoản 10486895xxxx thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam của V, V đưa cho anh T 4.000.000 đồng tiền mặt và trả công anh T 20.000 đồng, số tiền này V đã nạp vào tài khoản game rồi chơi game hết.

Tổng số tiền V chiếm đoạt của anh Nguyễn Xuân Th là 9.590.000 đồng. V đã sử dụng chơi game và tiêu xài cá nhân hết 5.190.000 đồng.

Ngày 09/7/2023, Trần Văn V đến Công an phường M L, quận Đ đến đầu thú, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 10 và ngày 17/7/2023, anh Nguyễn Xuân Th, anh Nguyễn Khánh D, anh Bùi Văn Anh, chị Nguyễn Ngọc Ch đến Công an quận Đ trình báo sự việc.

Vật chứng thu giữ của vụ án gồm: 01 chiếc điện thoại di động Xiaomi Note 11 Pro màu đen; 01 điện thoại di động Iphone 8 màu trắng; 01 điện thoại di động Vivo 1723 màu đen; 01 chiếc ví da màu nâu; 01 thẻ sinh viên tích hợp thẻ ngân hàng BIDV mang tên Nguyễn Xuân Th; Số tiền 4.400.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam, do Trần Văn V tự nguyện giao nộp.

Ngày 23/6/2023, Cơ quan CSĐT Công an quận Đ yêu cầu định giá tài sản đối với các tài sản V đã trộm cắp. Tại Kết luận định giá tài sản số 168 ngày 10/7/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng quận Đ, kết luận:

01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Xiaomi Redmi Note 11 pro màu đen Rom 128Gb, Imei1: 86278806322034, imei 2: 862788063220351, trị giá 3.800.000 đồng; 01 ví da màu nâu trị giá 10.000 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 màu trắng, Rom 64Gb, Imei 352998097114747 trị giá 2.500.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản trộm cắp là 6.310.000 đồng Bản cáo trạng số 285/CT – VKS – HĐ ngày 03/10/2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Đ truy tố bị cáo Trần Văn V, về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Bản án Hình sự sơ thẩm số 301/2023/HSST ngày 09/11/2023 của Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H đã quyết định:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Trần Văn V 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự;

Xử phạt Trần Văn V 06 tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Buộc Trần Văn V phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đầu thú tạm giữ, tạm giam ngày 09/7/2023.

Ngoài ra bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo. Ngày 21/11/2023, bị cáo Trần Văn V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Trần Văn V vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H sau khi đánh giá tính chất mức độ hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đề nghị: Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt, xử phạt bị cáo Trần Văn V 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”; 06 tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Buộc Trần Văn V phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 12 tháng tù.

Lời nói sau cùng bị cáo Trần Văn V thể hiện thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình và mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo đúng về mặt chủ thể kháng cáo và trong thời hạn của luật định nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo trình bày lời khai như đã trình tại cơ quan điều tra và phiên tòa sơ thẩm. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đủ cơ sở kết luận:

Ngày 08/7/2023 và ngày 09/7/2023 tại địa phận phường M L, quận Đ, thành phố H; Trần Văn V đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản lén lút chiếm đoạt của anh Nguyễn Khánh D 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 màu trắng bạc, trị giá 2.500.000 đồng cùng số tiền 4.430.000 đồng và chiếm đoạt của anh Nguyễn Xuân Th 01 chiếc điện thoại di động Xiaomi Note 11 Pro màu đen trị giá 3.800.000 đồng; 01chiếc ví da màu nâu, trị giá 10.000 đồng cùng số tiền 9.590.000 đồng. Tổng trị giá tài sản đã chiếm đoạt là 20.330.000 đồng.

Khi trộm cắp được điện thoại của anh Nguyễn Khánh D và anh Nguyễn Xuân Th, Trần Văn V dùng thủ đoạn gian dối mạo danh anh Nguyễn Khánh D nhắn tin qua ứng dụng Messenger, hỏi vay chị Nguyễn Ngọc Ch 2.000.000 đồng, hỏi vay anh Bùi Văn A 1.000.000 đồng rồi chiếm đoạt số tiền trên.

Tổng trị giá tài sản V đã chiếm đoạt là: 3.000.000 đồng.

Với hành vi phạm tội như trên bị cáo Trần Văn V bị Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo Trần Văn V, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an an toàn xã hội.

Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội.

Bị cáo V đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự có có căn cứ.

Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân bị cáo: bị cáo có nhân thân tốt, chưa tiền án tiền sự, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả. Gia đình bị cáo có ông nội được tặng huân chương kháng chiến hạng nhì, huân chương chiến sỹ vẻ vang hạng 3, hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, bố bị ốm nặng, anh ruột bị khuyết tật đặc biệt nặng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,p Khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự; căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng mức hình phạt 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”, 06 tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt buộc Trần Văn V phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 12 tháng tù là tương xứng với hành vi bị cáo đã thực hiện.

Vì vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn V. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 301/2023/HSST ngày 09/11/2023 của Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H về hình phạt đối với bị cáo Trần Văn V.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn V.

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 301/2023/HSST ngày 09/11/2023 của Tòa án nhân dân quận Đ, thành phố H về phần hình phạt đối với bị cáo Trần Văn V.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; Xử phạt Trần Văn V 06 tháng tù, về tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: Khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 55 Bộ luật hình sự; Xử phạt Trần Văn V 06 tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Buộc Trần Văn V phải chấp hành hình phạt chung của 02 tội là 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày đầu thú tạm giữ, tạm giam ngày 09/7/2023.

2. Án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Bị cáo Trần Văn V phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo kháng nghị.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

47
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2024/HS-PT

Số hiệu:20/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:17/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về