TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 11, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 20/2023/HS-ST NGÀY 01/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Trong ngày 01 tháng 3 năm 2024, tại Phòng xử án hình sự, trụ sở Tòa án nhân dân Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 11/2024/TLST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 04/2024/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Châu Kim T; sinh ngày 28/5/1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: A L, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm công; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Châu Thế H và bà Lữ Thị T1. Bị cáo chung sống như vợ chồng với bà Trương Gia N và có một người con sinh năm 2021; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 09/10/2019 bị Tòa án nhân dân Quận 11 áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 tháng, theo Quyết định số 159/2019/QĐ-TA; chấp hành xong ngày 05/11/2020. Nhân thân: Ngày 22/5/2013 bị Tòa án nhân dân Quận 6 xử phạt 01 năm 02 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, Theo bản án số 60/HSST; ngày 28/01/2014 chấp hành xong hình phạt tù. Ngày 09/11/2022 bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 21 tháng, theo Quyết định số 572/2022/QĐ-TA; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/10/2023 tại Nhà tạm giữ Công an Q; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Ông Nguyễn Văn N1; địa chỉ: 8 H, Phường G, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Hoàng Trung T2, sinh năm 1995; địa chỉ: C L, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn T3, sinh năm 1975; địa chỉ: I L, Phường A, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào tối ngày 26/7/2022, đối tượng T đi bộ đến nhà số A đường C, Phường F, Quận A thì thấy ông Nguyễn Văn N1 đang thi công trải thảm cỏ nhựa. Lúc này, đối tượng T thấy ông N1 đang sử dụng điện thoại Samsung Galaxy Note màu xanh 128 GB nên nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại của ông N1 để bán lấy tiền tiêu xài. Đối tượng T mượn ghế ngồi trước cửa nhà 1191-1199 để quan sát điện thoại của ông N1. Đến khoảng 19 giờ 10 phút cùng ngày, lợi dụng khi ông N1 không để ý, đối tượng T đã lén lút lấy trộm điện thoại của ông N1 rồi đón xe ôm về nhà tại địa chỉ số A L, Phường A, Quận A. Sau đó, đối tượng T mang đi bán điện thoại này được 2.000.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết. Đối tượng T giữ lại chứng minh nhân dân và sim điện thoại số 098707xxxx của ông N1. Đối tượng T gắn sim điện thoại trên vào điện thoại của đối tượng T rồi đăng nhập vào ứng dụng Momo của ông N1 với cách thức, thủ đoạn như sau: Đối tượng T báo quên mật khẩu tài khoản Momo, sau đó nhập thông tin số chứng minh nhân dân của ông N1 và nhập mã OTP để nhận mật khẩu đăng nhập mới. Khi đã đăng nhập trái phép vào tài khoản ví Momo của ông N1, trong khoảng thời gian từ 23 giờ 19 phút ngày 26/7/2022 đến 00 giờ 04 phút ngày 27/7/2022, đối tượng T nhiều lần thanh toán, cụ thể: Mua đồ trên mạng hết 398.000 đồng; nạp tiền vào số điện thoại 098707xxxx của ông N1 30.000 đồng; đối tượng T đến tiệm cầm đồ tại số I L, Phường A, Quận A của ông Nguyễn Văn T3 để chuộc máy tính bảng với số tiền 1.550.000 đồng và rút tiền mặt 1.000.000 đồng; đối tượng T chuyển vào tài khoản Mono của ông T3 số tiền 2.550.000 đồng để trả tiền; đối tượng T đến tiệm cầm tại số C L, phường H, quận T của ông Hoàng Trung T2 lấy tiền mặt 2.000.000 đồng rồi đối tượng T chuyển vào tài khoản Momo của ông T2 02 lần, tổng số tiền là 2.030.305 đồng. Đối tượng T đăng nhập trái phép vào tài khoản ví điện tử M của ông N1 để chiếm đoạt tổng số tiền là 5.008.305 đồng. Đối tượng T đã tiêu xài cá nhân hết.
Ngày 27/7/2023 đến ngày 29/7/2023, đối tượng T sử dụng nhiều số điện thoại để liên lạc qua số thuê bao 098707xxxx của ông N1 nói là có giữ chứng minh nhân dân của ông N1 (đối tượng T nói với ông N1 là giấy tờ do người khác đưa) yêu cầu ông N1 chuyển số tiền 500.000 đồng vào số tài khoản 0602455171xx - LUU NGO MINH TRUONG để nhận lại giấy tờ. Vào ngày 29/7/2022, ông N1 đã chuyển vào tài khoản trên số tiền 400.000 đồng. Đến ngày 01/8/2023, đối tượng T đã gửi giấy tờ tùy thân trả cho ông N1.
Đối tượng T khai điện thoại Samsung Galaxy Note màu xanh 128 GB do đối tượng T trộm cắp được của ông N1 thì đối tượng T đã bán nhưng không xác định được nơi bán và điện thoại mà đối tượng T dùng để đăng nhập trái phép vào tài khoản ví Momo của ông N1 thì đối tượng T cũng đã bán cho người không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.
Theo Bản kết luận định giá tài sản số 83/KL-HĐĐGTS ngày 29/08/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân Quận A kết luận: “01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note màu xanh 128GB và ốp lưng điện thoại bằng da màu đen loại ví đã qua sử dụng trị giá 4.000.000 đồng”.
Qua điều tra, ngày 11/10/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q bắt tạm giam Châu Kim T về tội “Trộm cắp tài sản” và “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” để điều tra.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q, bị can Châu Kim T khai nhận hành vi phạm tội như trên.
Về vật chứng của vụ án: Lưu vào hồ sơ vụ án: 01 USB nội dung camera liên quan đến việc trộm cắp, 01 CD chứa nội dung ghi âm, ghi hình hỏi cung bị can Châu Kim T.
Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra gia đình và bị can Châu Kim T đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho ông Nguyễn Văn N1. Bị hại có đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị can Châu Kim T, không yêu cầu gì thêm.
Tại Bản cáo trạng số 20/CT-VKSQ11 ngày 02/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 truy tố bị can Châu Kim T tội danh “Trộm cắp tài sản” và “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và điểm c khoản 1 Điều 290 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, bị cáo Châu Kim T có lời khai phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra và những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Bị hại là ông Nguyễn Văn N1 vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra. Bị hại đã nhận bồi thường, có đơn bãi nại và không có yêu cầu bồi thường gì thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Hoàng Trung T2 và ông Nguyễn Văn T3 vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra.
Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 trình bày lời luận tội, đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và từ 09 tháng đến 12 tháng tù về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” và đề nghị xử lý vật chứng như sau: Lưu vào hồ sơ vụ án một USB nội dung camera liên quan đến việc trộm cắp và một CD chứa nội dung ghi âm, ghi hình hỏi cung bị cáo Châu Kim T.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Vào lúc 19 giờ 10 phút ngày 26/7/2022, tại địa chỉ nhà số A Đường C, Phường A, Quận A, bị cáo Châu Kim T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại hiệu S Galaxy Note màu xanh 128G và ốp lưng điện thoại bằng da màu đen trị giá 4.000.000 đồng của ông Nguyễn Văn N1. Đồng thời, trong khoảng thời gian từ 23 giờ 19 phút ngày 26/7/2022 đến 00 giờ 04 phút ngày 27/7/2022, bị cáo Châu Kim T đã có hành vi đăng nhập trái phép vào tài khoản Momo của ông N1 để thực hiện 08 lượt giao dịch nhằm chiếm đoạt tổng số tiền là 5.008.305 đồng của ông N1.
Bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản nhằm mục đích lấy tiền tiêu xài.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”; tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 và Điều 290 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, đồng thời xâm phạm đến trật tự quản lý nhà nước trong lĩnh vực an ninh mạng viễn thông, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Bản thân bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tư lợi, lười lao động bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng trị và giáo dục bị cáo, đồng thời cũng nhàm mục đích răn đe và phòng ngừa chung.
[2] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:
Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã cùng gia đình tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo có ông ngoại là liệt sĩ nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo có một tiền sự. Đối với Bản án số 60/HSST ngày 28/01/2014 áp dụng đối với bị cáo thì bị cáo đã chấp hành xong và thuộc trường hợp được xóa án tích.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[3] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:
Về xử lý vật chứng:
Đối với vật chứng là một USB nội dung camera liên quan đến việc trộm cắp và một CD chứa nội dung ghi âm, ghi hình hỏi cung bị cáo Châu Kim T do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q sao lưu đưa vào hồ sơ vụ án. Căn cứ khoản 2 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét thấy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q đã xử lý đúng quy định.
Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại là ông Nguyễn Văn N1 đã nhận tiền bồi thường và không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Trong quá trình điều tra, truy tố bị cáo Châu Kim T, điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Q, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân Quận 11 được phân công điều tra, kiểm sát giải quyết vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên. Do đó, có cơ sở để xác định các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều phù hợp với quy định của pháp luật.
[5] Về xem xét vai trò, trách nhiệm của các đối tượng có liên quan trong vụ án:
Đối với người mua điện thoại S 9 do bị cáo T bán, qua điều tra chưa xác định được lai lịch. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào đủ căn cứ xử lý sau. Hội đồng xét xử kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q tiếp tục điều tra, xác minh để sớm xử lý đối với đối tượng trên.
Đối với các ông Nguyễn Văn T3, ông Hoàng Trung T2 có hành vi giao dịch dân sự, nhận tiền do bị cáo Châu Kim T chuyển vào tài khoản Momo của mình nhưng ông T3 và ông T2 không biết tiền trên do phạm tội mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q không xử lý là đúng quy định.
[6] Về xem xét hành vi khác của bị cáo có liên quan trong vụ án:
Ngày 27/7/2023 đến ngày 29/7/2023, bị cáo T sử dụng nhiều số điện thoại để liên lạc qua số thuê bao 098707xxxx của ông N1 nói là có giữ chứng minh nhân dân của ông N1 (bị cáo T nói với ông N1 là giấy tờ do người khác đưa) yêu cầu ông N1 chuyển số tiền 500.000 đồng vào số tài khoản 0602455171xx - LUU NGO MINH TRUONG để nhận lại giấy tờ. Vào ngày 29/7/2022, ông N1 đã chuyển vào tài khoản trên số tiền 400.000 đồng. Đến ngày 01/8/2023, bị cáo T đã gửi giấy tờ tùy thân trả cho ông N1.
Hành vi của bị cáo T có dấu hiệu của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng số tiền bị cáo T chiếm đoạt là 400.000 đồng; bị cáo T không có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản nên hành vi của bị cáo T không cấu thành tội phạm. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q không xử lý truy tố bị cáo T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét lại.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 38; Điều 50; Điều 55; khoản 1 Điều 173; điểm c khoản 1 Điều 290; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Châu Kim T phạm tội “Trộm cắp tài sản” và phạm tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Châu Kim T 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Châu Kim T 09 (chín) tháng tù về tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.
Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2023.
Căn cứ khoản 2 Điều 107 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Đua vào hồ sơ vụ án vật chứng là một USB nội dung camera liên quan đến việc trộm cắp và một CD chứa nội dung ghi âm, ghi hình hỏi cung bị cáo Châu Kim T.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo phải chịu là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2023/HS-ST
Số hiệu: | 20/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 11 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về