Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGÃ NĂM, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 20/2023/HS-ST NGÀY 29/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2023/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 5 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 108/2023/QĐSRT-TA ngày 09/6/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Danh S, sinh ngày 17/5/1990, tại: Châu H, Thạnh T, Sóc Trăng. Nơi cư trú: ấp Vĩnh T, xã Vĩnh Q, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Không nghề; Trình độ học vấn: không biết chữ; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Danh H, sinh năm 1971 (s) và bà Danh Thị P, sinh năm 1969 (s); Tiền án: Không; Tiền sự: 02 (Ngày 25/11/2021 bị Ủy ban nhân dân xã Vĩnh Q ra Quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn số 381/QĐ-UBND, thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 25/11/2021 bị Công an xã Vĩnh Q ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC về hành vi “Trộm cắp tài sản” với số tiền 2.000.000 đồng, chưa chấp hành); Nhân thân: Không án tích. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 27/02/2023 cho đến nay. Bị cáo có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phạm Minh T, thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt).

- Bị hại: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1962 (vắng mặt). Địa chỉ: ấp Vĩnh H, xã Vĩnh Q, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng - Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Quốc T, sinh năm: 1985 (vắng mặt).

2. Ông Nguyễn Văn V, sinh năm: 1976 (vắng mặt) Cùng địa chỉ: ấp Vĩnh H, xã Vĩnh Q, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 19/12/2022 bị cáo Danh S có đi nhậu cùng Tâm (chưa rõ nhân thân, lai lịch) ở khu vực xã Thuận H, huyện Long M, tỉnh Hậu Giang. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày bị cáo nhờ người bạn tên T chở về. Khi đến cầu Vĩnh H, xã Vĩnh Q thì bị cáo xuống để đi bộ về nhà, còn T quay xe lại nhậu tiếp. Lúc này, bị cáo có ôm theo một con gà trống do T cho mượn để về nhà nuôi, đạp mái. Trên đường đi bị cáo gọi điện thoại hỏi T “còn nhậu nữa không qua bên mình nhậu”, T nói “về nhà làm mồi đi, rồi tôi mua rượu qua”, bị cáo tiếp tục đi bộ về nhà. Khi đến nhà ông T, ở ấp Vĩnh H, xã Vĩnh Q, thị xã N, quan sát xung quanh không có ai bị cáo nảy sinh ý định vào nhà ông Th để bắt trộm gà về làm mồi nhậu. Sau đó bị cáo đi qua bên cạnh hong nhà của ông Th đến chuồng gà (cách nhà khoảng 04 mét), bị cáo bắt trộm 01 con gà trống điều màu đỏ đang nhốt trong bội, con gà kêu lên nên bị cáo ôm con gà bỏ chạy. Lúc này, ông Th và con tên Nguyễn Quốc T chạy ra kiểm tra phát hiện và truy hô cùng mọi người đuổi theo. Sau đó, bắt được bị cáo trốn trong nhà vệ sinh của ông P ngụ cùng ấp, khi đó trên tay bị cáo ôm 02 con gà trống.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐG ngày 11/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự thị xã Ngã Năm kết luận: Giá trị của 01 con gà trống điều màu đỏ, trọng lượng 3,5 kg là 320.000 đồng.

Tại Cáo trạng số 22/CT-VKSNN ngày 10 tháng 5 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm truy tố bị cáo Danh S về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm giữ quyền công tố Nhà nước đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) chấp nhận cáo trạng truy tố đối với bị cáo. Đồng thời, đề nghị HĐXX xem xét và áp dụng các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã được trả lại cho bị hại nên chưa gây thiệt hại. Ngoài ra bị cáo là người dân tộc thiểu số, không biết chữ nên khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật. Từ đó, đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 32; Điều 50 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 06 tháng đến 09 tháng tù.Về trách nhiệm dân sự: không ai yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

* Tại bài phát biểu bào chữa cho bị cáo Luật sư Phạm Minh T trình bày: Thống nhất với bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo về tội danh và khung hình phạt. Đồng thời, đề nghị HĐXX xem xét áp dụng các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trong quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, tài sản đã được trả lại cho bị hại nên chưa gây thiệt hại, bị cáo là người dân tộc thiểu số, không biết chữ nên nhận thức pháp luật hạn chế đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Từ đó đề nghị HĐXX áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo thấp nhất của khung hình phạt.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên; Cơ quan điều tra Công an thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, Kiểm sát viên; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa vắng mặt người bào chữa cho bị cáo (có đơn xin vắng mặt), bị hại và những người làm chứng. Xét thấy, bị hại và những người làm chứng nêu trên đã có lời khai đầy đủ trong quá trình điều tra và việc vắng mặt của họ không làm cản trở đến việc xét xử bị cáo. Đồng thời, trong quá trình điều tra các bị hại cũng không có yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, tại phiên tòa bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa cho bị cáo. Căn cứ theo quy định tại Điều 291, Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt những người nêu trên.

[3] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như sau: Vào ngày 19/12/2022 tại nhà bị hại ở ấp Vĩnh H, xã Vĩnh Q, thị xã N, tỉnh Sóc Trăng bị cáo có hành vi trộm con gà trống của bị hại. Tại kết luận định giá tài sản số 02/KL-HĐĐG ngày 11/01/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng Hình sự thị xã Ngã Năm kết luận: Giá trị của 01 con gà trống điều màu đỏ, trọng lượng 3,5 kg là 320.000 đồng. Xét thấy, giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt của bị hại dưới định lượng 2.000.000 đồng. Tuy nhiên, trước đó vào ngày 25/11/2021 bị cáo bị Công an xã Vĩnh Quới ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 23/QĐ-XPHC về hành vi “Trộm cắp tài sản” với số tiền 2.000.000 đồng hiện chưa chấp hành. Do đó, hành vi của bị cáo đã hội đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng số 22/CT-VKSNN, ngày 10/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo về hành vi và khung hình phạt nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và không oan cho bị cáo nên HĐXX chấp nhận.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật; Bản thân bị cáo cũng hiểu rõ người nào cố ý chiếm đoạt tài sản của người khác sẽ bị pháp luật trừng trị. Đồng thời, bị cáo từng có 01 tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác. Nhưng với bản tính lười lao động, chỉ muốn hưởng thụ tài sản của người khác nên bị cáo có hành vi lén lúc lấy tài sản của bị hại. Do đó, đối với hành vi của bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo và cũng là phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội, nhất là trong thời điểm hiện nay loại tội phạm này đang có chiều hướng gia tăng.

[5] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm cho bị cáo như: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có; Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã được trả lại cho bị hại nên chưa gây thiệt hại. Ngoài ra bị cáo là người dân tộc thiểu số, không biết chữ nên khả năng nhận thức pháp luật còn hạn chế, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật theo quy định tại điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Kiểm sát viên và ngươi bào chữa cho bị cáo đề nghị xem xét và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ để giảm một phần hình phạt cho bị cáo là có cơ sở và phù hợp theo quy định pháp luật nên HĐXX chấp nhận.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường. Đồng thời, tại phiên tòa hôm nay bị hại vắng mặt. Do đó, về trách nhiệm dân sự HĐXX không đặt ra xem xét. Trường hợp sau này có yêu cầu sẽ giải quyết thành vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự.

[7] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Ngã Năm đã xử lý xong nên HĐXX không đặt ra xem xet.

[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm. Tuy nhiên, do bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở nơi đặt biệt khó khăn nên HĐXX xem xét miễn án phí cho bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm đ khoản 1 Điều 32; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tuyên bố: Bị cáo Danh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Danh S 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

2/ Về trách nhiệm dân sự: Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3/ Về xử lý vật chứng: Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4/ Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Danh S được miễn, không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Quyn kháng cáo: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với người vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm 6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2023/HS-ST

Số hiệu:20/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ngã Năm - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về