Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 20/2022/HS-ST NGÀY 13/12/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo:

Bùi Mạnh H, sinh ngày 23 tháng 12 năm 1991 tại huyện Na R, tỉnh Bắc Kạn. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Khối phố T, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn H và bà Bùi Thị T; vợ Hoàng Thị N (đã ly hôn) và 01 người con; tiền án: 04 tiền án (Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2015/HSST ngày 15/9/2015, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bản án hình sự sơ thẩm số 22/2016/HSST ngày 25/11/2016, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bản án hình sự sơ thẩm số 07/2018/HSST ngày 08/5/2018, Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 18 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản; Bản án hình sự sơ thẩm số 18/2015/HSST ngày 28/10/2019, Tòa án nhân dân thành phố L, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/8/2021); tiền sự: Không; nhân thân: Xấu; bị bắt tạm giam từ ngày 27/9/2022 đến nay. Có mặt.

* Bị hại:

1. Anh Lưu Văn H, sinh năm 1988. Vắng mặt.

2. Anh Ngô Văn H, sinh năm 1995. Vắng mặt.

Đều cùng địa chỉ: Khối phố T, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Bà Đỗ Thị T, sinh năm 1965. Vắng mặt.

2. Ông Lê H N, sinh năm 1979. Có mặt.

Đều cùng địa chỉ: Khối phố N, thị trấn B, huyện B, tỉnh Lạng Sơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04 giờ ngày 17/9/2022, bị cáo Bùi Mạnh H quan sát nhà xe Hùng H của anh Ngô Văn H đối diện với nhà H không có ai ở nhà. Bị cáo trèo tường vào nhà đi đến vị trí buồng ngủ lấy chìa khóa để trong lỗ của viên gạch ba banh ở cửa buồng, mở cửa buồng thì thấy 01 (một) chiếc máy cắt kim loại nhãn hiệu CROWN, màu đen để ở góc buồng, bị cáo liền lấy trộm mang ra ngoài rồi khóa cửa buồng lại và để chìa khóa ở vị trí cũ. Sau đó, bị cáo trèo tường ra ngoài và mang chiếc máy cắt kim loại về nhà cất giấu. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, bị cáo bán chiếc máy cắt kim loại đã trộm cắp được cho Đỗ Thị T là người thu mua phế liệu với giá 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng). Quá trình mua bán, bị cáo không nói với bà T đây là tài sản do trộm cắp mà có. Đến khoảng 18 giờ ngày 22/9/2022, bà T đã bán chiếc máy cắt kim loại trên cho Lê H N với giá 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng). Số tiền 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng) bán máy cắt kim loại bị cáo đã tiêu sài cá nhân hết, không thu hồi được.

Ngoài lần trộm cắp trên, khoảng 20 giờ cùng ngày 17/9/2022, Bùi Mạnh H trộm cắp tài sản của anh Lưu Văn H 01 (một) chiếc đồng hồ đeo tay nhãn hiệu =LIO EL022-C1, mặt đồng hồ màu vàng, quai da màu nâu, 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy – A8 và 01 (một) củ sạc điện thoại di động Realme R39518 RoHS, có gắn kèm theo dây sạc màu trắng.

Sau khi phát hiện bị mất trộm tài sản, ngày 19/9/2022 và ngày 25/9/2022, Lưu Văn H và Ngô Văn H đã làm đơn trình báo gửi đến Công an thị trấn B, huyện B.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 11/KL-HĐĐGTS, ngày 27/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: 01 (một) điện thoại cảm ứng, nhãn hiệu SAMSUNG Galaxy A8 (2018), 32GB, số kiểu máy : SM- A530F/DS trị giá: 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng). 01 (một) củ sạc Điện thoại di động Realme R39518 RoHS, có gắn kèm theo dây sạc màu trắng: 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng. 01 (một) đồng hồ đeo tay nhãn hiệu = LIOEL022-C1, màu vàng, quai da màu nâu trị giá: 767.000 đồng (Bẩy trăm sáu mươi nghìn đồng). 01 (một) máy cắt kim loại nhãn hiệu CROWN, màu đen: 570.000 đồng (năm trăm bảy mươi nghìn đồng). Tổng trị giá tài sản Bùi Mạnh H đã trộm cắp là: 2.137.000 đồng (Hai triệu một trăm ba mươi bảy nghìn đồng).

Tại Bản cáo trạng số 22/CT-VKS-BG ngày 23/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lạng Sơn truy tố bị cáo Bùi Mạnh H về tội Trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Mạnh H khai nhận, hành vi trộm cắp tài sản như Cáo trạng truy tố ra trước Tòa là đúng.

Đối với bà Đỗ Thị T và ông Lê H N khi mua các tài sản với Bùi Mạnh H không biết đây là tài sản do bị cáo đi trộm cắp mà có, do đó Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B không có căn cứ để xử lý. Về số tiền 150.000 đồng (Một trăm năm mươi nghìn đồng) và 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) mà Đỗ Thị T và Lê H N bỏ ra mua tài sản trên, bà Thảo và anh Nhượng không yêu cầu đòi bồi thường.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Mạnh H phạm tội Trộm cắp tài sản:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Bùi Mạnh H từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 27/9/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo vì bản thân bị cáo là người nghiện game, sống phụ thuộc gia đình, không có thu nhập, tài sản riêng. Về vật chứng: Tài sản đã trả lại cho chủ sở hữu nên không xem xét. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát; lời nói sau cùng bị cáo xin đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo, sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về việc xét xử vắng mặt bị hại Lưu Văn H, Ngô Văn H; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị T được Tòa án nhân dân huyện B triệu tập hợp lệ đến phiên tòa. Xét thấy bị cáo yêu cầu xử vắng mặt; mặt khác trong hồ sơ cơ quan điều tra đã tiến hành lấy lời khai những người này, bị cáo cũng đã thừa nhận hành vi phạm tội. Việc vắng mặt những người trên không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án; do đó căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt những người trên.

[3] Về căn cứ buộc tội: Tại phiên toà bị cáo Bùi Mạnh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân. Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của người làm chứng và cũng phù hợp với các chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án, cụ thể: Ngày 17/9/2022, bị cáo Bùi Mạnh H đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu trộm cắp 01 (một) điện thoại di động, 01 (một) củ sạc điện thoại di động kèm dây, 01 (một) đồng hồ đeo tay và 01 (một) máy cắt kim loại để bán lấy tiền chơi điện tử. Tổng trị giá tài sản Bùi Mạnh H đã trộm cắp là: 2.137.000 đồng (hai triệu một trăm ba mươi bảy nghìn đồng). Bị cáo chưa được xóa án tích tại bản án hình sự sơ thẩm số 18/2015/HSST ngày 28/10/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử phạt 02 năm tù về tội Trộm cắp tài sản nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó có căn cứ xác định bị cáo Bùi Mạnh H phạm tội Trộm cắp tài sản quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo hoàn toàn là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, thấy rằng hành vi của bị cáo thực hiện là coi thường pháp luật, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Hành vi đó cần phải được xử nghiêm minh trước pháp luật.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng: Không có.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện game, có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình bị pháp luật hình sự nghiêm cấm nhưng vẫn cố tình thực hiện, điều đó thể hiện bị cáo coi thường pháp luật.

[8] Về hình phạt bổ sung quy định trong luật, tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Nhưng xét thấy bị cáo không có tài sản và thu nhập ổn định theo biên bản xác minh ngày 12/10/2022 của Cơ quan điều tra Công an huyện B nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về xử lý vật chứng: Tài sản đã được trả lại cho các chủ sở hữu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Căn cứ theo Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Bùi Mạnh H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

[12] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về mức hình phạt cũng như các vấn đề khác đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[13] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào Điều 135; Điều 136; Điều 262; khoản 1 Điều 292; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Mạnh H phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Bùi Mạnh H 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam ngày 27/9/2022.

2. Về án phí: Buộc bị cáo Bùi Mạnh H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

3. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê H N báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Vắng mặt bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Đỗ Thị T báo cho biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2022/HS-ST

Số hiệu:20/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Gia - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về