Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 20/2022/HS-ST NGÀY 18/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

 Ngày 18 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, tỉnh Bình Định (điểm cầu trung tâm trực tuyến, kết nối với điểm cầu thành phần là Nhà tạm giữ Công an huyện A, tỉnh Bình Định), xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2022/TLST-HS, ngày 02 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 125/2022/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2022, đối với bị cáo:

ĐINH VĂN H, sinh ngày 08 tháng 5 năm 1984, tại: Bình Định; nơi cư trú: thôn 1, xã A, huyện A, tỉnh Bình Định; nghề nghiệp: làm nông; trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: H’re; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Văn C và bà Đinh Thị Ơ; có vợ (đã ly hôn) và 02 con; tiền sự: chưa; tiền án: chưa; về nhân thân: ngày 01/12/2021, bị Ủy ban nhân dân xã An Trung xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Lăng mạ, chì chiếc, xúc phạm danh dự, nhân phẩm thành viên gia đình”, “ hành hung người ngăn chặn, phát hiện, báo tin bạo lực gia đình” với số tiền là 1.500.000đ, bị cáo đã chấp hành xong ngày 02/12/2021. Bị cáo đang bị tạm giam “Có mặt”.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Minh V, trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Chi nhánh trợ giúp pháp lý số 4 (huyện A) thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bình Định bào chữa cho Đinh Văn H “Có mặt”.

- Bị hại: Ông Đinh Văn Q, 28 tuổi, nơi cư trú: Thôn 1, xã A, huyện A, tỉnh Bình Định “Có mặt”.

- Người làm chứng:

1. Ông: Nguyễn Văn L, 54 tuổi, nơi cư trú: thôn H, thị trấn A, tỉnh Bình Định “Vắng mặt”.

2. Chị: Đinh Thị V, 30 tuổi, nơi cư trú: Thôn 1, xã A, huyện A, tỉnh Bình Định “Vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 10/11/2021, sau khi uống rượu tại nhà của mẹ ruột, Đinh Văn H đi tìm người vợ đã ly hôn tên là Đinh Thị N nhưng không thấy. Đinh Văn H nảy sinh ý định trộm cắp máy cưa lốc cầm tay, nên đi bộ đến nhà ông Đinh Văn Q. Sau khi quan sát thấy nhà đã đóng cửa ngủ, Đinh Văn H đến mái hiên bên trái nhà của ông Q, bật đèn pin điện thoại rọi thấy trên đống gỗ có 01 máy cưa lốc cầm tay nhãn hiệu STIHL 381, H liền xách máy cưa đem về nhà cất giấu. Đến ngày 16/11/2021, Đinh Văn H bỏ máy cưa vào bao chở đi bán cho ông Nguyễn Văn L (ở thôn Hưng Nhơn, thị trấn A, huyện A) nhưng ông L không mua. H chở máy cưa về nhà tiếp tục cất giấu và đi làm ăn ở huyện Hoài Ân. Ngày 29/11/2021, Công an xã An Trung làm việc, Đinh Văn H thừa nhận là đã lấy trộm máy cưa của ông Đinh Văn Q.

Tại kết luận định giá số 02/KL – HĐĐGTS, ngày 10/3/2022, của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện A xác định máy cưa cầm tay nhãn hiệu STIHL 381 màu đỏ trắng (của ông Đinh Văn Q) có giá trị 3.800.000 đồng.

Bản cáo trạng số: 14/CT-VKSAL ngày 01/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A đã truy tố bị cáo Đinh Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (Viết tắt là BLHS).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội: Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Đinh Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 của BLHS: xử phạt Đinh Văn H 03 tháng 18 ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/5/2022 đến nay.

Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng: tài sản đã trả lại cho bị hại nên khôngđề nghị HĐXX xem xét;

Ý kiến của bị hại Đinh Văn Q: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Bị cáo không có học vấn nên trình độ nhận thức pháp luật thấp, hoàn cảnh gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo, vợ ly hôn. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS, Điều 58, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo 03 tháng 18 ngày tù, trả tự do cho bị cáo tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt và tha cho bị cáo được về nhà để làm ăn nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà thể hiện: Khoảng 22 giờ ngày 10/11/2021 Đinh Văn H lén lút đến hiên nhà của bị hại Đinh Văn Q chiếm đoạt 01 máy cưa cầm tay hiệu STIHL 381. Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện A xác định máy cưa bị cáo chiếm đoạt của bị hại có giá trị 3.800.000đ. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện A truy tố bị cáo Đinh Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi chiếm đoạt tài sản mà bị cáo thực hiện là hoàn tòan trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Hành vi đó không những ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, làm mất an toàn xã hội ở địa phương, mà còn gây ra tâm trạng lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bị cáo là thanh niên có sức khỏe, lẽ ra phải tu dưỡng rèn luyện làm ăn chính đáng; đằng này bị cáo lợi dụng đêm tối và sơ hở của bị hại để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Bằng hành động có ý thức, cố ý trực tiếp, bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản là máy cưa trị giá 3.800.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị áp dụng hình phạt tương xứng và thật nghiêm khắc, thì mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo là con của bà Đinh Thị Ơ, là người được hưởng chính sách như thương binh. Tài sản chiếm đoạt đã trả lại cho bị hại, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 của BLHS mà bị cáo được hưởng. Xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS nên áp dụng Điều 54 BLHS, cho bị cáo hưởng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[4] Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội, hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng, xét thấy để tương xứng với hành vi bị cáo thực hiện và việc đấu tranh và phòng, chống tội phạm trên địa bàn huyện nên cần thiết phải xử phạt bị cáo hình phạt tù. Tuy nhiên, để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật và xét trong quá trình tạm giam, bị cáo thường xuyên đau bệnh, sức khỏe không ổn định, nên HĐXX xử phạt bị cáo hình phạt tù bằng thời gian bị cáo đã bị tạm giam cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe, cải tạo bị cáo thành công dân có ích và phòng ngừa chung cho xã hội. Vì vậy đề nghị của Kiểm sát viên, người bào chữa phù hợp với nhận định của HĐXX nên chấp nhận.

[5] Về bồi thường thiệt hại: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên HĐXX không xem xét.

[6] Về án phí HSST: Bị cáo là cá nhân thuộc hộ nghèo nên được miễn nộp theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Căn cứ quy định tại khoản 5 Điều 328 Bộ luật tố tụng Hình sự; Căn cứ vào điểm đ, khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đinh Văn H 03 (Ba) tháng 18 (Mười tám) ngày tù. Thời gian phạt tù bằng thời gian bị cáo đã bị tạm giam.

Tuyên bố trả tự do cho bị cáo Đinh Văn H ngay tại phiên tòa nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo được miễn nộp.

4. Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/8/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2022/HS-ST

Số hiệu:20/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoài Ân - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về