Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 20/2022/HS-PT NGÀY 12/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 01 năm 2022 tại Hội trường xét xử, Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 198/2021/TLPT- HS ngày 04 tháng 6 năm 2021 đối với bị cáo Trần Mạnh H do có kháng cáo của bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2021/HS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trần Mạnh H, sinh năm 1984 tại Vĩnh Phúc;

HKTT: P, xã Y, huyện L, tỉnh Vĩnh Phúc; Tạm trú: phuờng B, thành phố H, tỉnh Đồng Nai;

Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn S, sinh năm 1952 và bà Phan Thị T, sinh năm: 1954; Vợ: Đỗ Thị H, sinh năm 1985, có 03 con lớn sinh năm 2008, nhỏ sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo hiện đang bị giam giữ trong vụ án hình sự khác; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn H1 làm nghề lái xe, H1 thấy có nhiều trâu bò của người dân chăn thả tự do không có người trông coi nên H1 nảy sinh ý định trộm cắp. Sáng ngày 27/8/2020 Nguyễn Văn H1 điều khiển xe ô tô tải biển số 62C - 028.97 của chị Nguyễn Ngọc D chở T đi từ thị xã U, tỉnh Bình Dương đến ấp Đ, xã N, huyện T để tìm trâu, bò trộm cắp, trên thùng xe ô tô tải để 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 93C1 – 341.79 với mục đích sử dụng để chạy thoát khi bị phát hiện. Khi đi đến khu vực đất trống tại ấp Đ, xã N, huyện T thì H1 và T thấy đàn trâu của gia đình anh Nguyễn Vũ Hoàng C đang ăn trên bãi đất trống, quan sát không thấy người trông coi nên Nguyễn Văn H1 đã đi bộ đến tháo dây cột 01 con trâu cái màu đen đi một đoạn thì H1 nói T lại dắt trâu lên xe ô tô tải nêu trên. Sau đó, T sử dụng xe mô tô 93C1 – 341.79 đi về thị xã U trước. Do Trần Mạnh H đã hứa hẹn trước với Nguyễn Văn H1 về việc tiêu thụ tài sản trộm cắp nên sau khi trộm cắp được con trâu, Nguyễn Văn H1 điện thoại thông báo việc mang trâu đến bán cho Trần Mạnh H, sau đó Nguyễn Văn H1 điều khiển xe ô tô chở trâu đến bán cho Trần Mạnh H với giá 14.000.000 đồng, Nguyễn Văn H1 chia cho T 500.000 đồng và giữ lại số tiền 13.500.000 đồng. Sau đó, Trần Mạnh H đã giết mổ trâu và bán thịt thu lợi được 8.000.000 đồng.

Ngày 10/9/2020, Trần Như T đã đến Công an phường K, thị xã U, tỉnh Bình Dương để đầu thú về hành vi Trộm cắp tài sản thực hiện ở huyện X, huyện V, tỉnh Đồng Nai và tỉnh Bình Dương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X, tỉnh Đồng Nai đã khởi tố đối với các bị cáo Nguyễn Văn H1, Trần Như T và Trần Mạnh H về tội: “Trộm cắp tài sản”. Quá trình điều tra, các bị cáo Nguyễn Văn H1, Trần Như T đã tự thú về hành vi Trộm cắp tài sản là con trâu của anh Nguyễn Vũ Hoàng C tại huyện T nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X, tỉnh Đồng Nai đã thông báo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 10/12/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện T kết luận: 01 con trâu cái 10 năm tuổi, trọng lượng 300kg có trị giá là 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng).

Về vật chứng: Đối với 01 xe ô tô tải biển số 62C-028.97; 01 xe mô tô biển số 93C1-341.79; 01 điện thoại di động Nokia 6300; 01 điện thoại di động OPPO Rone 2 có liên quan đến tội phạm hiện Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện X đã thu giữ và xử lý theo thẩm quyền.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Vũ Hoàng C yêu cầu các bị cáo bồi thường thiệt hại về tài sản là 30.000.000 đồng, bị cáo Nguyễn Văn H1 đã bồi thường 15.000.000 đồng, bị cáo Trần Mạnh H đã bồi thường 10.000.000 đồng, số tiền còn lại là 5.000.000 đồng anh C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2021/HS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai xử phạt các bị cáo:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn H1 (Tên gọi khác T1, N1), Trần Như T (Tên gọi khác T2, H) và Trần Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s, r khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H1 (Tên gọi khác T1, N1) 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù của bản án này.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Mạnh H 11 (mười một) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù của bản án này.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s, r khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Như T (Tên gọi khác T2, H) 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù của bản án này.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 16/4/2021 bị cáo Trần Mạnh H kháng cáo với lý do xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo Nguyễn Văn H1 và Trần Như T không kháng cáo và không bị kháng nghị.

* Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm:

Về thời hạn kháng cáo: Kháng cáo của các bị cáo H làm trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung:

Bị cáo H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cho rằng không thực hiện hành vi trộm cắp tuy nhiên qua quá trình xét hỏi và căn cứ tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để xác định Nguyễn Văn H1 trộm cắp trâu bò và đem bán cho Trần Mạnh H. Mặc dù Trần Mạnh H biết trâu bò do trộm cắp mà có nhưng vẫn hứa hẹn sẽ tiêu thụ.

Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tài sản của người khác. Ngoài vụ án này, bị cáo còn bị Tòa án nhân dân huyện X xét xử tội “Trộm cắp tài sản” trong một vụ án khác. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, tuyên xử bị cáo 11 tháng tù là đúng với quy định của pháp luật, không nặng như kháng cáo bị cáo đã nêu.

Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; Tại phiên tòa bị cáo, đại diện Viện kiểm sát không cung cấp thêm chứng cứ mới nào khác, ngoài những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Vào ngày 27/8/2020, tại ấp Đ, xã N, huyện T, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Nguyễn Văn H1 và Trần Như T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt một con trâu của anh Nguyễn Vũ Hoàng C trị giá 30.000.000 đồng (ba mươi triệu đồng) và đem bán cho bị cáo Trần Mạnh H với giá 14.000.000 đồng theo sự hứa hẹn và thỏa thuận trước với bị cáo Trần Mạnh H. Số tiền bán trâu 14.000.000 đồng, Nguyễn Văn H1 được chia 13.500.000 đồng và Trần Như T được chia 500.000 đồng, Trần Mạnh H tiêu thụ và thu lợi số tiền 8.000.000 đồng.

[2] Xét hành vi của bị cáo, qua các tài liệu chứng cứ thu thập được nhận thấy: Vào đầu năm 2020 Nguyễn Văn H1 rủ Trần Như T đi trộm cắp bò, sau khi tiếp cận được Trần Mạnh H để bán bò thì Nguyễn Văn H1 và Trần Như T thực hiện trộm cắp bò về bán cho Trần Mạnh H. Do bán nhiều lần nên Trần Mạnh H nghi ngờ hỏi Nguyễn Văn H1 bò ở đâu mà có nhiều như vậy thì Nguyễn Văn H1 nói bò do trộm cắp mà có. Trần Mạnh H biết được Nguyễn Văn H1 trộm cắp tài sản và nói Nguyễn Văn H1 khi nào trộm cắp được bò thì đem bán cho Trần Mạnh H. Vào khoảng đầu tháng 7/2020 và ngày 27/8/2020 Nguyễn Văn H1 và Trần Như T đã thực hiện trộm cắp bò của anh Nguyễn Vũ Hoàng C ở huyện T đem bán cho Trần Mạnh H như đã hứa hẹn trước. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cho rằng bị cáo chỉ là người mua bán, tiêu thụ tài sản do Nguyễn Văn H1 phạm tội mà có, không có hành vi trộm cắp tài sản tuy nhiên hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo H biết được Nguyễn Văn H1 trộm cắp trâu bò từ đầu tháng 8/2020 và bị cáo nói với Nguyễn Văn H1 là khi nào có trâu bò thì điện thoại cho tôi để tôi mua.

Như vậy có đủ căn cứ kết luận bị cáo Trần Mạnh H đã hứa hẹn với Nguyễn Văn H1 khi nào trộm cắp được trâu bò thì đem bán cho bị cáo nên Trần Mạnh H tham gia với vai trò đồng phạm là người hứa hẹn, giúp sức thực hiện hành vi phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Xét nội dung kháng cáo: Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì cho rằng cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là quá nặng.

Tuy nhiên với nhân thân, tiền án và hành vi phạm tội của bị cáo mà cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo, ngoài ra bị cáo không thành khẩn khai báo nên không có căn cứ để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Do đó kháng cáo của bị cáo không có cơ sở chấp nhận, giữ nguyên mức án mà cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo.

[4] Về quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015;

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Mạnh H; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2021/HS-ST ngày 16 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đồng Nai.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

3. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Mạnh H 11 (mười một) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù của bản án này.

4. Về án phí: Bị cáo Trần Mạnh H phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2022/HS-PT

Số hiệu:20/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về