Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C, TỈNH GI

BẢN ÁN 20/2021/HS-ST NGÀY 28/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 10 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện C , tỉnh Gi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2021/TLST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Võ Công T , sinh ngày 22/4/2004 tại huyện C , tỉnh Gi .

Nơi cư trú: Thôn H , thị trấn N , huyện C , tỉnh Gi .

Nghề nghiệp: làm nông; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính:Nam;

Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Thành H , sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị H , sinh năm 1983;

Tiền án: không.

Tiền sự: 01, Ngày 20/8/2020, bị Công an thị trấn Nhơn Hòa, huyện C , tỉnh Gi ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/12/2021. Có mặt

- Bị hại:

1. Anh Nguyễn Hoàng H , sinh năm 1982; Vắng mặt Địa chỉ: Thôn H , thị trấn N , huyện C , tỉnh Gi .

2. Anh Lê Thanh B , sinh năm 1984; Vắng mặt Địa chỉ: Thôn H , thị trấn N , huyện C , tỉnh Gi .

3. Anh Nguyễn Văn Đ , sinh năm 1968; Vắng mặt Địa chỉ: Thôn P, thị trấn Nhơn Hòa, huyện C , tỉnh Gi .

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Bùi Quang T - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Gi . Có mặt

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo đồng thời là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Võ Thành H , sinh năm 1976 và bà Nguyễn Thị H , sinh năm 1983 (bố mẹ đẻ của T ); Có mặt Địa chỉ: Thôn H , thị trấn N , huyện C , tỉnh Gi .

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Mậu D , sinh năm 1984; và chị Phạm Thị N , sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn H , thị trấn N , huyện C , tỉnh Gi . Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong tháng 12/2020 và tháng 6/2021, Võ Công T đã thực hiện 03 vụ Trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện C , tỉnh Gi cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 08 giờ ngày 20/12/2020, trong khi đang đi chơi trên đường liên thôn thuộc thôn H , thị trấn N , huyện C , T khai đối tượng tên "Vượt" (không rõ lai lịch) rủ Võ Công T đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài cá nhân thì T đồng ý. Lúc này, T và Vượt thấy nhà anh Nguyễn Hoàng H không có người trông coi nên Vượt cùng T trèo qua hàng rào vào trong vườn bắt 04 con gà mái (Trong đó có 02 con gà lông màu đen và 02 con gà lông màu vàng) rồi bỏ vào một bao xác rắn màu xanh do Vượt mang theo trước đó. Sau khi trộm cắp được số gà trên, T và Vượt mang ra chợ Phú Nhơn, huyện C bán cho vợ chồng anh Nguyễn Mậu D và chị Phạm Thị N được số tiền 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng). Cả hai đối tượng chia nhau mỗi người 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiêu xài cá nhân.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 13 giờ ngày 22/12/2020, Võ Công T một mình đi chơi ở khu vực thôn H , thị trấn N , huyện C , khi đi qua nhà anh Lê Thanh B , thấy nhà không có ai nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. T đi vòng ra phía sau vườn, trèo qua hàng rào lưới B40 vào trong vườn và bắt được hai con gà mái lông đen rồi bỏ vào một bao xác rắn màu vàng nhặt trong vườn. Sau khi trộm cắp được số gà trên, T mang ra chợ Phú Nhơn, huyện C bán cho vợ chồng anh Nguyễn Mậu D và chị Phạm Thị N được số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Số tiền trên T đã tiêu xài cá nhân hết.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 11 giờ ngày 23/6/2021, Võ Công T một mình đi chơi ở thôn H , thị trấn N , huyện C , tỉnh Gi thì phát hiện thấy nhà anh Nguyễn Văn Đ đang được xây dựng tại thôn H , thị trấn N , huyện C không có ai trông coi nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. T đi vào khu vực nhà đang xây dựng lấy được một chiếc xe đẩy (xe rùa) màu xanh dương, đã qua sử dụng rồi mang đi cất giấu.

Trước đó, ngày 20/8/2020, Công an thị trấn Nhơn Hòa đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 10/QĐ-XPHC đối với Võ Công T bằng hình thức phạt tiền về hành vi Trộm cắp tài sản xảy ra vào ngày 06/8/2020 tại thôn Hòa Bình, thị trấn Nhơn Hòa, huyện C , tỉnh Gi với mức phạt 750.000đ (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng).

- Tại Bản kết luận định giá tài sản số 28/KL-HĐĐGTS ngày 07/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận:

+ Giá trị thực tế của 04 con gà mái là gà thả vườn trong đó có 02 con gà mái lông màu đen, 02 con gà mái lông màu vàng, mỗi con có trọng lượng 1,5kg là:

600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng).

- Tại Bản kết luận định giá tài sản số 29/KL-HĐĐGTS ngày 07/6/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận:

+ Giá trị thực tế của 02 con gà mái là gà thả vườn, lông màu đen, mỗi con có trọng lượng 1,5kg là: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).

- Tại Bản kết luận định giá tài sản số 33/KL-HĐĐGTS ngày 07/7/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận:

+ Giá trị thực tế của 01 (Một) chiếc xe đẩy (xe rùa) bằng kim loại, màu xanh dương có bánh xe và chân đỡ, đã qua sử dụng là: 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Tổng trị giá tài sản trong 03 lần chiếm đoạt là: 1.100.000đ (Một triệu một trăm nghìn đồng).

* Về vật chứng vụ án:

- Đối với 06 con gà mà bị cáo T đã chiếm đoạt: Sau khi chiếm đoạt, bị cáo T đã mang đến bán cho anh Nguyễn Mậu D và chị Phạm Thị N . Quá trình làm việc, anh Dân khai nhận đã bán số gà trên cho nhiều người nhưng cụ thể bán cho ai không rõ. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện C không thu giữ được.

- Đối với 01 (Một) bao xác rắn màu xanh và 01 (Một) bao xác rắn màu vàng mà Võ Công T dùng để đựng số gà trộm cắp được: Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện C không thu giữ được.

- Đối với 01 (Một) chiếc xe đẩy (xe rùa) bằng kim loại, màu xanh dương có bánh xe và chân đỡ, đã qua sử dụng: Quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn Đ . Do đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả tài sản trên cho anh Nguyễn Văn Đ nhận.

* Về trách nhiệm dân sự:

- Bị cáo Võ Công T và gia đình đã bồi thường cho gia đình anh Nguyễn Hoàng H số tiền 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng), bồi thường cho gia đình anh Lê Thanh B số tiền 350.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đồng). Bị hại đã nhận đủ tiền bồi thường và không có bất cứ yêu cầu gì khác.

- Anh Nguyễn Văn Đ đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường.

Tại bản cáo trạng số: 18/CT-VKS ngày 31 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C , tỉnh Gi đã truy tố bị cáo Võ Công T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C , tỉnh Gi giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Võ Công T về tội “Trộm cắp tài sản”; Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm b,h,s khoản 1 Điều 51; Điều 90, Điều 91; Điều 98; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Võ Công T từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự và vật chứng: Miễn xét.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo thống nhất với tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng. Xét bị cáo là người chưa thành niên phạm tội, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; do đó, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo với mức án thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo rất ăn năn hối lỗi về việc làm vi phạm pháp luật của mình; đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện C , Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C , tỉnh Gi , Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa lời khai của bị cáo phù hợp với những chứng cứ, tài liệu thu thập được có tại hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Để có tiền tiêu xài phục vụ mục đích cá nhân nên trong khoảng thời gian từ ngày 20/12/2020 đến ngày 23/6/2021, Võ Công T đã 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản trên địa bàn thôn H , thị trấn N , huyện C , tỉnh Gi với tổng trị giá tài sản bị thiệt hại là: 1.100.000đ (Một triệu một trăm nghìn đồng).

Mặc dù giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt được chưa đủ định lượng cấu thành cơ bản về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự nhưng bị cáo Võ Công T đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” mà còn vi phạm. Vì vậy, hành vi đó của bị cáo Võ Công T đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện C , tỉnh Gi truy tố là đúng người, đúng tội.

[3] Về tính chất, vai trò, nhân thân; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Hội đồng xét xử xét, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây dư luận xấu trong nội bộ quần chúng nhân dân. Loại tội “Trộm cắp tài sản” trong thời gian qua xảy ra nhiều và có chiều hướng diễn biến phức tạp. Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học sửa chữa sai lầm của bản thân, tiếp tục thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” dẫn đến phạm tội. Hơn nữa bị cáo hiện đang bị truy tố về vụ án khác đều về tội “Trộm cắp tài sản”. Do đó, cần xử phạt tù bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã tỏ ra thành khẩn khai báo;

phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại. Bị cáo không có tiền án và phạm tội nhiều lần, cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b,h,i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi lượng hình, quyết định hình phạt. Bị cáo là người dưới 18 tuổi nên được hưởng những quy định đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại Điều 90, Điều 91; Điều 98; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự khi lượng hình, quyết định hình phạt.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

Xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt tù bị cáo với mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là hợp lý.

[4] Đối với đối tượng tên "Vượt": Theo lời khai của bị cáo T thì Vượt đã cùng T thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 20/12/2020. Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Do đó, Cơ quan CSĐT Công an huyện C tiếp tục xác minh và xử lý sau là đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[5] Đối với anh Nguyễn Mậu D và chị Phạm Thị N : Là người đã mua 06 con gà do bị can T mang đến bán. Quá trình điều tra xác định khi giao dịch mua bán, anh Dân và chị Nga không biết tài sản trên là do phạm tội mà có. Do đó, hành vi của anh Dân và chị Nga không cấu thành tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có" quy định tại Điều 323 BLHS, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[6] Về vật chứng của vụ án:

- Đối với 06 con gà và 01 (Một) bao xác rắn màu xanh và 01 (Một) bao xác rắn màu vàng mà Võ Công T dùng để đựng số gà trộm cắp được: Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện C không thu giữ được, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

- Đối với 01 (Một) chiếc xe đẩy (xe rùa) bằng kim loại, Cơ quan CSĐT Công an huyện C đã ra Quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trao trả tài sản trên cho anh Nguyễn Văn Đ là đúng pháp luật, nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

- Anh Nguyễn Hoàng H và anh Lê Thanh B đã nhận đủ tiền bồi thường; Anh Nguyễn Văn Đ đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Võ Công T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm b,h,i,s khoản 1 Điều 51; Điều 54; Điều 90, Điều 91; Điều 98; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Võ Công T : 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo vào trại giam để chấp hành án.

2. Về hình phạt bổ sung, trách nhiệm dân sự và vật chứng: miễn xét.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội. Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung vào công quỹ nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp cho bị cáo có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Gi để yêu cầu xét xử phúc thẩm; Những người vắng mặt có quyền kháng cáo kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

370
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 20/2021/HS-ST

Số hiệu:20/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:28/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về