Bản án về tội trộm cắp tài sản số 198/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 198/2021/HS-ST NGÀY 21/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 187/2021/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 212/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Ninh Hải D, sinh ngày 01 tháng 10 năm 1997 tại thành phố Hải Phòng. Nơi cư trú: Số 199A đường K, phường Đ 2, quận H, thành phố H; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ninh Hoàng Th và bà Đặng Thị T; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; chưa có vợ, con; tiền án: Không, tiền sự: ngày 14/3/2021, Công an phường Kênh D, quận Lê Chân, Hải Phòng xử phạt hành chính về hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép cấp hiệu, phù hiệu trang phục Công an nhân dân; bị cáo bị bắt tạm giam ngày 25/6/2021 đến ngày 22/10/2021 thay đổi biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Công ty TNHH V; địa chỉ trụ sở: Số 160 đường B, phường P, Quận 1, Thành phố H, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 27/4/2021, Công an phường Đằng Giang nhận được đơn trình báo của anh Nguyễn Thọ Th (sinh năm 1985, nơi cư trú: Tổ dân phố 6, phường P, quận H, thành phố H) là giám sát an ninh của cửa hàng tiện lợi Circle K tại số 372, 374 đường L, phường Đ, quận N, thành phố H thuộc Chi nhánh Công ty TNHH V tại thành phố Hải Phòng trình báo việc nhân viên cửa hàng là Ninh Hải D có hành vi chiếm đoạt tài sản của cửa hàng bằng hình thức sử dụng máy POS của cửa hàng, chuyển tiền vào tài khoản ví Momo của Ninh Hải D.

Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền đã triệu tập Ninh Hải D đến trụ sở làm việc.

Tại Cơ quan điều tra, Ninh Hải D đã khai nhận như sau: D là nhân viên của cửa hàng tiện lợi Circle K ở số 372 - 374 dường L, phường Đ, quận N, thành phố H. Nhiệm vụ của D là phục vụ và làm đồ ăn cho khách, sắp xếp đồ trên giá bán hàng, thanh toán tiền khi khách mua hàng và sử dụng ứng dụng ví Momo trên máy POS của cửa hàng để nạp tiền vào tài khoản ví Momo cho khách có nhu cầu. Khi khách có nhu cầu chuyển tiền vào ví Momo thì nhân viên sẽ thu tiền của khách, thao tác trên máy POS của cửa hàng để nhập số tiền đó vào tài khoản ví Momo cho khách. Tiền thu được của khách phải chuyển lại cho cửa hàng. Do cần tiền chi tiêu cá nhân, D nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của cửa hàng bằng cách trong ca làm việc của mình, D sử dụng ứng dụng ví Momo tại phần mềm máy POS của cửa hàng để nạp tiền vào tài khoản ví Momo số 0389655871 (là số điện thoại của D) nhưng không trả lại tiền mặt cho cửa hàng. D rút tiền từ ví Momo, chuyển về tài khoản ngân hàng TP Bank số 03776299401 mang tên Ninh Hải D, sau đó, rút tiền từ tài khoản ngân hàng này để tiêu xài. Cụ thể các lần D chiếm đoạt tài sản như sau:

Lần thứ nhất: Ngày 23/4/2021, ca làm việc của D là từ 18 giờ đến 22 giờ. Tuy nhiên, khoảng 16 giờ 30 phút, D đến cửa hàng, mặc đồng phục nhân viên và đến quầy thanh toán của cửa hàng làm việc. Đến 17 giờ 24 phút cùng ngày, quan sát thấy các nhân viên còn lại đang làm việc ở vị trí xa quầy thanh toán và có khách đến thanh toán sản phẩm, D đã thực hiện các thao tác trên máy POS để nạp số tiền 5.000.000 đồng vào tài khoản ví Momo của D như sau: D bấm nút “Cổng dịch vụ”, “nạp tiền”, chọn “nạp tiền Momo”, sau đó nhập số điện thoại 0389655871 (là số điện thoại của D) vào ô Wallet ID và bấm nút “check”. D nhập số tiền 5.000.000 đồng vào ô Total Amount (tổng số tiền) và bấm nút “check”. D bấm nút Cash (thanh toán) và bấm nút Exact Amount (xác nhận).

Sau khi xác nhận giao dịch xong thì ngăn kéo đựng tiền tại cửa hàng tự động mở để nhân viên cất tiền đã nhận từ khách hàng nhưng D không để số tiền 5.000.000 đồng vào ngăn kéo theo quy định mà đóng ngăn kéo lại, xé hóa đơn, vo lại rồi vứt vào thùng rác của cửa hàng. Đến 18 giờ 37 phút cùng ngày, D sử dụng điện thoại của mình, truy cập ứng dụng ví Momo, sau đó rút tiền từ ví Momo chuyển về tài khoản ngân hàng TP Bank số 03776299401 của D.

Lần thứ hai: Với phương thức như trên, hồi 6 giờ 52 phút ngày 25/4/2021, D sử dụng máy POS của cửa hàng để nạp số tiền 5.000.000 đồng vào tài khoản ví Momo của D rồi đến 7 giờ 01 phút cùng ngày rút số tiền 5.000.000 đồng từ ví Momo về tài khoản ngân hàng TPBank.

Lần thứ ba: Hồi 10 giờ 13 phút ngày 25/4/2021, D sử dụng máy POS của cửa hàng để nạp số tiền 1.000.000 đồng vào tài khoản ví Momo của D rồi đến 11 giờ 12 phút cùng ngày rút số tiền 1.000.000 đồng từ ví Momo về tài khoản ngân hàng TPBank.

Lần thứ tư: Hồi 12 giờ 03 phút ngày 26/4/2021, D sử dụng máy POS của cửa hàng để nạp số tiền 1.000.000 đồng vào tài khoản ví Momo của D rồi đến 12 giờ 27 phút cùng ngày rút số tiền 1.000.000 đồng từ ví Momo về tài khoản ngân hàng TPBank.

Lần thứ năm: Hồi 10 giờ 25 phút ngày 27/4/2021, D sử dụng máy POS của cửa hàng để nạp số tiền 1.000.000 đồng vào tài khoản ví Momo của mình rồi đến 11 giờ 20 cùng ngày, D dùng ví Momo thanh toán 01 thẻ điện thoại Viettel mệnh giá 100.000 đồng để nạp vào số điện thoại 0389655871. Đến 14 giờ 35 phút cùng ngày, D rút số tiền 900.000 đồng từ ví Momo về tài khoản ngân hàng TPBank.

Toàn bộ số tiền 13.000.000 đồng D chiếm đoạt của cửa hàng Circle K, D sử dụng để trả nợ, nạp tiền điện thoại và chi tiêu cá nhân.

Vật chứng thu giữ: Thu của Ninh Hải D 01 điện thoại di động Iphone XS dung lượng 256 GB màu vàng; 01 áo phông ngắn tay màu đen đỏ, có chữ Circle K;

01 áo khoác gió dài tay màu đen đỏ, có chữ Circle K.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi sự việc xảy ra, Ninh Hải D đã tác động gia đình bồi thường số tiền 13.000.000 đồng cho Cửa hàng tiện lợi Circle K tại số 372, 374 đường L, phường Đ, quận N, thành phố H. Đại diện cửa hàng đã nhận đủ số tiền trên, không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì khác, có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với Ninh Hải D.

Tại Cơ quan điều tra, Ninh Hải D đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tại phiên toà bị cáo Ninh Hải D khai nhận toàn bộ nội dung vụ án như cáo trạng đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số 183/CT-VKSNQ ngày 23/11/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Ninh Hải D về tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền thay đổi nội dung truy tố theo quy định tại Điều 319 Bộ luật tố tụng dân sự và quyết định truy tố bị cáo Ninh Hải D về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Ninh Hải D với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; do bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên không đề nghị hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Iphone XS dung lượng 256 GB màu vàng; tịch thu tiêu hủy 01 áo phông ngắn tay màu đen đỏ, có chữ Circle K; 01 áo khoác gió dài tay màu đen đỏ, có chữ Circle K theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền.

Về án phí: Bị cáo Ninh Hải D phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Sau khi đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, bị cáo đều thành khẩn khai nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở lại xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh:

[2] Lời khai của bị cáo Ninh hải D tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng và các tài liệu điều tra khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Trong khoảng thời gian từ ngày 23 đến ngày 27/4/2021, bị cáo Ninh Hải D đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tiền của Cửa hàng tiện lợi Circle K tại địa chỉ số 372-374 đường L, phường Đ, quận N, Hải Phòng với tổng số tiền là 13.000.000 đồng. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận bị cáo Ninh Hải D phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền tại phiên tòa thay đổi kết luận truy tố về tội nhẹ hơn đối với hành vi phạm tội của bị cáo Ninh Hải D từ tội “Tham ô tài sản” sang truy tố bị cáo Ninh Hải D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là phù hợp với quy định tại Điều 319 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo có 01 tiền sự chưa được xóa, qua đó cho thấy bị cáo là người có nhân thân rất xấu, ý thức chấp hành pháp luật kém. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian dài đủ để răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo.

- Về tình tiết tăng nặng:

[6] Trong các ngày 23/4/2021 và ngày 25/4/2021 bị cáo Ninh Hải D chiếm đoạt số tiền mỗi lần là 5.000.000 đồng, cấu thành độc lập vì vậy bị cáo Ninh Hải D phải chịu tình tiết tăng nặng là phạm tội hai lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ:

[7] Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo đã khắc phục hậu quả bồi thường cho bị hại, bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và là căn cứ để Hội đồng xét xử xém xét khi lượng hình đối với bị cáo.

- Về hình phạt bổ sung:

[8] Do bị cáo không có thu nhập, công việc ổn định nên không xem xét xử phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[9] Đối với 01 điện thoại di động Iphone XS dung lượng 256 GB màu vàng là phương tiện bị cáo phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; 01 áo phông ngắn tay màu đen đỏ, có chữ Circle K; 01 áo khoác gió dài tay màu đen đỏ, có chữ Circle K không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/11/2021tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền - Về trách nhiệm dân sự:

[10] Bị hại đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí:

[11] Bị cáo Ninh Hải D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án:

[12] Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt: Ninh Hải D 18 (mười tám) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” trừ cho bị cáo 03 tháng 29 ngày tạm giam, bị cáo còn phải chấp hành 14 (mười bốn) tháng 01 (một) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính kể từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sư; căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: 01 điện thoại di động Iphone XS dung lượng 256 GB màu vàng là phương tiện bị cáo phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; 01 áo phông ngắn tay màu đen đỏ, có chữ Circle K; 01 áo khoác gió dài tay màu đen đỏ, có chữ Circle K không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/11/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền.

- Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Ninh Hải D phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 198/2021/HS-ST

Số hiệu:198/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về