TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 197/2022/HS-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 203/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 213/2022/QĐXXST - HS ngày 08 tháng 7 năm 2022 đối với bị cáo:
Nguyễn Ngọc G, sinh năm: 1988 tại tỉnh Bình Dương; nơi đăng ký thường trú: Số 16/2, khu phố T, phường T, thành phố A, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, (chết) và bà Sâm Thị N, sinh năm: 1955; bị cáo chưa có vợ, con.
Tiền án:
Ngày 25/6/2019, bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh Bình Dương xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản tại bản án số 145/2019/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/01/2020.
Ngày 15/9/2020, bị Tòa án nhân dân quận (nay là thành phố) Đ, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại bản án số 248/2020/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/9/2021.
Tiền sự: Không.
Nhân thân:
Ngày 07/5/2008, bị Tòa án nhân dân huyện (nay là thành phố) T, tỉnh Bình Dương xử phạt 42 tháng tù về tội Cố ý gây thương tích tại bản án số 142/2008/HSST.
Ngày 04/3/2016, bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) T, tỉnh Bình Dương ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 18 tháng tại Cơ sở xã hội Trung tâm giáo dục lao động tạo việc làm tỉnh Bình Dương.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/3/2022 đến nay. Có mặt.
Bị hại: Tạ Văn S, sinh năm 1970; chỗ ở hiện nay: 38/5A3, khu phố Đ, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Sâm Thị Ng, sinh năm 1955; nơi thường trú: Số 16/2, khu phố T, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Có mặt.
Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1966; nơi thường trú: Số 172C, ấp A, xã S, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt
Bà Nguyễn Thị Thanh Th, sinh năm 1989; nơi thường trú: Số 23 khu phố A, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.
Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1980; nơi thường trú: Số 4/12A, khu phố H, phường T, thành phố T, tỉnh Bìn Dương. Vắng mặt.
Người làm chứng: Nguyễn Văn Ch. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bản thân Nguyễn Ngọc G không có nghề nghiệp, thiếu tiền tiêu xài nên đã nảy sinh ý định tìm tài sản của người khác chiếm đoạt đem bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 11/3/2022, Nguyễn Ngọc G điều khiển chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng xanh, biển số: 61C1-513.66 từ nhà địa chỉ số 16/2, khu phố T, phường T, thành phố T, tỉnh Bình Dương chạy đến địa chỉ số 38/5A3, khu phố Đ, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì phát hiện ki ốt của ông Tạ Văn S, thuê ở đang mở cửa nên dừng xe mô tô bên ngoài và đi bộ vào trong. Lúc này, G nhìn thấy ông S đang nằm ngủ dưới nền nhà bên cạnh có để 01 bóp da màu nâu bên trong có số tiền 3.500.000 đồng nên G đi lại lấy bóp da cầm trên tay phải rồi tiếp tục đến kệ tủ tivi lấy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng, 01 đồng hồ đeo tay nhãn hiệu Casino màu trắng của ông S cầm trên tay đi ra ngoài để tẩu thoát. Thời điểm này, ông S tỉnh dậy phát hiện G chiếm đoạt tài sản của mình, liền tri hô cùng người dân bắt giữ G giao cho Công an phường H lập biên bản phạm tội quả tang.
Tang vật thu giữ gồm: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng; 01 (một) đồng hồ đeo tay nhãn hiệu Casino màu trắng; 01 (một) bóp da màu nâu bên trong có số tiền 3.500.000 đồng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu trắng xanh, biển số: 61C1-513.66, số máy 5C6H100783, số khung RLCS5C6H0EY100770.
Tại bản kết luận định giá ngày 18/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố T kết luận: Tài sản bị chiếm đoạt là 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng có trị giá 500.000 đồng; 01 (một) đồng hồ đeo tay nhãn hiệu Casino màu trắng có trị giá 300.000 đồng; 01 (một) bóp da màu nâu có trị giá 50.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là 4.350.000 đồng.
Tại bản Cáo trạng số 199/CT-VKS-TA ngày 21 tháng 6 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc G về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh như cáo trạng đã truy tố, phân tích tính chất, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s, h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc G mức hình phạt từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù.
Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng có ốp lưng màu hồng; 01 (một) đồng hồ đeo tay nhãn hiệu Casino màu trắng; 01 (một) bóp da màu nâu và số tiền 3.500.000 đồng là tài sản của bị hại ông Tạ Văn S nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại cho ông Sang.
Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yahama Sirius màu trắng xanh, biển số:
61C1-513.66, số máy 5C6H100783, số khung RLCS5C6H0EY100770 do bị cáo Nguyễn Ngọc G sử dụng làm phương tiện phạm tội. Quá trình điều tra, xác minh được biết xe mô tô trên do Sầm Thị N, làm chủ sở hữu, bà N cho bị cáo G mượn làm phương tiện đi lại, không biết bị cáo Giàu sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại cho bà N.
Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị hại Tạ Văn S; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có lời khai phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo. Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng quy định của pháp luật.
[2] Tại phiên toà, bị cáo Nguyễn Ngọc G đã khai nhận hành vi trộm cắp tài sản như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có căn cứ kết luận: Ngày 11/3/2022, tại ki ốt địa chỉ số 38/5A3, khu phố Đ, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương, Nguyễn Ngọc G có hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 3.500.000 đồng, 01 bóp da màu nâu có trị giá 50.000 đồng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng có trị giá 500.000 đồng; 01 đồng hồ đeo tay nhãn hiệu Casino màu trắng có trị giá 300.000 đồng, tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt là 4.350.000 đồng của bị hại ông Tạ Văn S. Trong vụ án này, bị cáo trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Lần phạm tội này bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, làm mất an ninh trật tự tại nơi bị cáo gây án. Bị cáo là người còn trẻ, có khả năng lao động lẽ ra bị cáo phải tìm cho mình một nghề nghiệp ổn định, tích cực lao động để tạo ra của cải vật chất nuôi sống bản thân, chăm lo cho gia đình nhưng vì tham lam, lười lao động mà bị cáo đã dấn thân vào con đường phạm tội. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm để trừng trị và giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.
[4] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, vai trò, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xét xử về tội Trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không tu dưỡng rèn luyện để lấy đó làm bài học, mà vẫn tiếp tục phạm tội.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[5] Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, đúng pháp luật nên được chấp nhận.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S màu trắng có ốp lưng màu hồng; 01 (một) đồng hồ đeo tay nhãn hiệu Casino màu trắng; 01 (một) bóp da màu nâu và số tiền 3.500.000 đồng là tài sản của bị hại ông Tạ Văn S nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại cho ông S là có căn cứ.
Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yahama Sirius màu trắng xanh, biển số: 61C1-513.66, số máy 5C6H100783, số khung RLCS5C6H0EY100770 do bị cáo Nguyễn Ngọc G sử dụng làm phương tiện phạm tội. Quá trình điều tra, xác minh được biết xe mô tô trên do Sầm Thị N, làm chủ sở hữu, bà N cho bị cáo G mượn làm phương tiện đi lại, không biết bị cáo G sử dụng làm phương tiện phạm tội nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại cho bà Ngọc là có căn cứ.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s, h khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
- Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Khóa XIV quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc G phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc G 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11 tháng 3 năm 2022.
2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Ngọc G phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật./.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 197/2022/HS-ST
Số hiệu: | 197/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về