Bản án về tội trộm cắp tài sản số 197/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH LƯU, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 197/2021/HS-ST NGÀY 29/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 189/2021/TLST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 249/2021/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 29/2021/HSST-QĐ ngày 28/12/2021 đối với bị cáo:

Thái Văn T; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 25 tháng 12 năm 2003; Nơi cư trú: Xóm A, xã Quỳnh T, huyện Q, tỉnh N; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông: Thái Văn N, sinh năm 1963 và con bà: Hồ Thị X, sinh năm 1963; Anh chị em ruột: Có 08 người, bị cáo là con thứ năm; Vợ; Con: Chưa có; Tiền án: Tại bản án số 194/2020/HSST ngày 30/11/2020 của Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ về tội: “Trộm cắp tài sản. Chấp hành án phạt cải tạo không giam giam giữ từ ngày 14/01/2021; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 03/11/2021 đến nay. Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp: Bà Hồ Thị X, sinh năm 1963. Có mặt. Nơi cư trú: Xóm A, xã Quỳnh T, huyện Q, tỉnh N.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Phạm Văn H – Trợ giúp viên, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh N – Chi nhánh số 1. Có mặt Địa chỉ: Khối B, thị trấn D, huyện C, tỉnh N.

- Người bị hại:

+ Anh Hoàng Văn S, sinh năm 1998. Vắng mặt Nơi cư trú: Xóm C, xã T, huyện Q, tỉnh N.

+ Anh Nguyễn Bá H, sinh năm 1995. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Xóm D, xã T, huyện Q, tỉnh N.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1974. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Xóm Đ, xã B, huyện Q, tỉnh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 04 giờ sáng, ngày 21/10/2021, Thái Văn T đi bộ đến nhà thờ G, đi lễ, khi đi qua khu cách ly y tế của Trường Mầm Non xã Th phát hiện trong khu cách ly có 04 (bốn) phòng đang mở cửa nên T trèo qua bờ tường rào rồi đi vào phòng cách ly số 02 (hai) T quan sát thấy chiếc điện thoại OPPO F5 để trên đầu giường anh Hoàng Văn S nên T lấy bỏ vào trong túi quần đang mặc rồi tiếp tục đi đến phòng số 04(bốn) lấy trộm 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A51 đang để trên đầu giường của anh Hồ Bá H. Sau khi lấy trộm được 02 (hai) chiếc điện thoại trên T bỏ vào trong túi quần rồi trèo bờ tường đi về nhà. Đến 07 giờ cùng ngày, T đưa chiếc điện thoại di động OPPO F5 đến cửa hàng điện thoại di động Nguyễn Văn S để bẻ khóa. Tại đây, T vay anh S số tiền 390.000đ (Ba trăm chín mươi nghìn đồng) và hẹn khi nào lấy điện thoại sẽ trả tiền, còn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sasung Galaxy A51 T đưa về cất giấu tại chòi cá của gia đình. Nhận thấy hành vi của mình đã bị phát hiện nên Thái Văn T đã đến Công an xã T, huyện Q để đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình đồng thời giao nộp 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A51 và cùng ngày anh Nguyễn Văn S giao nộp 01 (một) chiếc điện thoại di động OPPO F5.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 479/KL-HĐG ngày 28/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của Ủy ban nhân dân huyện Q, tỉnh N kết luận: 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A51, mặt lưng màu xanh, màn hình khóa mật khẩu, phía sau mặt lưng có ghi số Imei:

355036/11/199788/3 có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 2.000.000đ (Hai triệu đồng) và 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5, màu sữa, có ghi số Model: CPH1723 có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

Bản cáo trạng số 01/CT-VKS-QL ngày 06/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh N truy tố Thái Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự;

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h, khoản 1, Điều 52, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Thái Văn T từ 06 tháng đến 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tổng hợp hình phạt chưa chấp hành của bản án số 194/2020/HS-ST, ngày 30/11/2020 là 02 tháng 27 ngày. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 08 tháng 27 ngày đến 09 tháng 27 ngày.

Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại anh Hoàng Văn S và anh Nguyễn Bá H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu Thái Văn T bồi thường gì thêm nên miễn xét.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn S không yêu cầu bị cáo trả số tiền 390.000đ vì đã được gia đình bị cáo trả lại số tiền 390.000đ.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Thái Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa trình bày: Viện kiểm sát truy tố bị cáo Thái Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, năng lực trách nhiệm hình sự chưa đầy đủ, việc nhận thức pháp luật còn hạn chế. Nên đề nghị HĐXX xem xét để áp dụng các điều luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Thái Văn T phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; đầu thú được quy định tại điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, đề nghị áp dụng điểm s, h khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 90, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo với mức khởi điểm của khung hình phạt và bằng 3/4 mức hình phạt là 4 tháng tù. Tổng hợp hình phạt của bản án số 194/2020/HSST chưa thi hành là 02 tháng 27 ngày. Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo Thái Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai, xin hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt để bị cáo sớm đoàn tụ với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai có tại hồ sơ; phù hợp về thời gian, địa điểm và đặc điểm tài sản báo bị mất của bị hại anh Hoàng Văn S và anh Nguyễn Bá H. Sự phù hợp, thống nhất của các chứng cứ nêu trên có đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 04 giờ sáng, ngày 21/10/2021, Thái Văn T đã trộm cắp 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F5 của anh Hoàng Văn S có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A51 của anh Hoàng Văn H có giá trị tại thời điểm bị chiếm đoạt là 2.000.000đ (Hai triệu đồng). Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 3.500.000đ (Ba triệu năm trăm nghìn đồng). Hành vi của bị cáo thực hiện có đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự như Cáo trạng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Vụ án có tính chất nghiêm trọng: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có tiền án chưa được xóa án tích, không coi đó là bài học mà tiếp tục phạm tội, thể hiện sự coi thường pháp luật. Nên cần thiết phải cách ly khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: tái phạm quy định tại điểm h, khoản 1, Điều 52. Có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo; sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt:

Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, khả năng nhận thức hành vi còn hạn chế nên áp dụng thêm điều luật đối với người chưa thành niên phạm tội nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Việc áp dụng hình phạt tù về tội mới đối với bị cáo cần quy đổi thời gian cải tạo không giam giữ còn lại mà bị cáo chưa thi hành của bản án cũ. Bị cáo phải chấp hành 18 (Mười tám) tháng cải không giam giữ theo Bản án số 194/2020/HS-ST, ngày 30/11/2020 về tội “Trộm cắp tài sản” của Toà án nhân dân huyện Q, tỉnh N từ ngày 14/01/2021 cho đến khi thực hiện hành vi phạm tội mới ngày 21/10/2021. Bị cáo đã chấp hành được 09 tháng 07 ngày, số ngày cải tạo không giam giữ còn lại mà bị cáo chưa thi hành là 08 tháng 23 ngày (Quy đổi 03 ngày cải tạo không giam giữ thành 01 ngày tù giam), bị cáo phải chấp hành 02 tháng 27 ngày tù.

Ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, được chấp nhận.

Điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế, bị cáo đang sống phụ thuộc vào gia đình nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

- Người bị hại anh Hoàng Văn S và anh Nguyễn Bá H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu Thái Văn T bồi thường gì thêm nên miễn xét.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn S không yêu cầu bị cáo trả số tiền 390.000đ vì đã được gia đình bị cáo trả lại số tiền 390.000đ.

[6] Bị cáo Thái Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51; điểm h, khoản 1, Điều 52; Điều 90; Điều 91; Điều 101, Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt Thái Văn T 06 (Sáu) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản".

Căn cứ Điều 56, Điều 104 BLHS tổng hợp hình phạt đã chấp hành còn lại là 02 (Hai) tháng 27 (Hai mươi bảy) ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 194/2020/HSST, ngày 30/11/2020 của Toà án nhân dân huyện Q, tỉnh N. Buộc bị cáo Thái Văn T phải chấp hành hình phạt chung là 08 (Tám) tháng 27 (Hai mươi bảy) ngày tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 03/11/2021.

Án Phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội;

Buộc bị cáo Thái Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Bị cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc ngày niêm yết bản sao bản án lên Toà án nhân dân tỉnh N.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

77
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội trộm cắp tài sản số 197/2021/HS-ST

Số hiệu:197/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Lưu - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về