Bản án về tội trộm cắp tài sản số 196/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT-TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 196/2021/HS-ST NGÀY 24/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 12 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự sơ thẩm thụ lý số: 216/2021/HSST, ngày 30/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 399/2021/HSST-QĐ ngày 10 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo

Họ và tên: NGUYỄN VĂN A, Giới tính: nam.

Sinh ngày: 12/11/1985, tại Bình Thuận.

Nơi ĐKHKTT: khu phố 5, phường B, Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo. Trình độ học vấn: 03/12; Nghề nghiệp: không Con ông: Nguyễn Văn C (đã chết);

Con bà Lê Thị Ánh D, sinh năm: 1962 ; Nghề nghiệp: Buôn bán Trú tại khu phố 5, phường B, Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Anh chị em ruột: 04 người, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình.

Vợ, con: chưa có.

- Tiền án:

+ Ngày 13/12/2011, bị Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết xử phạt 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 212/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/11/2016, chưa được xóa án tích.

+ Ngày 26/9/2019, bị Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết xử phạt 18 tháng tù theo bản án số 119/HSST về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 24/12/2020, chưa được xóa án tích.

- Tiền sự: không Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp: “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

Bị hại:

1. bà Nguyễn Thị E, sinh năm 1978 (Vắng mặt) Địa chỉ: khu phố 6, phường F, Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

2. bà Đặng Thị G, sinh năm 1978 (Vắng mặt) Địa chỉ: thôn H, xã I, huyện Phú Quý, Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Trịnh Văn J, sinh năm: 1968 (Vắng mặt) Địa chỉ: 78B, đường K, khu phố 7, phường L, Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 15/3/2021, Nguyễn Văn A (sinh năm 1985, trú tại: khu phố 5, phường B, Thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận) đi bộ vào khoa Ngoại tổng hợp - Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận thuộc khu phố 1, phường M, Thành phố Phan Thiết với mục đích tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Do còn sớm, bệnh nhân và người nhà thăm nuôi còn thức nên A nằm ngủ ngoài hành lang, đến khoảng 01 giờ ngày 16/3/2021, A thức dậy lén lút lên lầu 2 vào phòng số 1 (phòng bệnh nhân) trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu Vivo, màu xanh-đen của chị Đặng Thị G (sinh năm 1988, trú tại thôn H, xã I, huyện Phú Quý, tỉnh Bình Thuận) và 01 điện thoại di động Iphone 11, màu đen của chị Nguyễn Thị E (sinh năm 1978, trú tại khu phố 6, phường F, Thành phố Phan Thiết) rồi nhanh chóng bỏ đi. Trên đường tẩu thoát, do chiếc điện thoại hiệu Vivo bị cài mật khẩu và thấy đã cũ, có giá trị không cao nên A vứt trên đường bê tông thuộc phường M, Thành phố Phan Thiết. Đến khoảng 17 giờ ngày 16/3/2021, A mang chiếc điện thoại di động Iphone 11 đến tiệm điện thoại di động N ở số 78B, đường K thuộc khu phố 7, phường L, Thành phố Phan Thiết bán cho ông Trịnh Văn J (sinh năm 1968, là chủ tiệm), ông J không biết điện thoại do A trộm cắp nên đồng ý mua với giá 3.500.000 đồng, chiều tối cùng ngày 16/3/2021 ông J bán lại chiếc điện thoại Iphone 11 cho một nam thanh niên (không rõ nhân thân) với giá 3.700.000 đồng.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, anh Nguyễn Mạnh O (sinh năm 1978, trú tại khu phố 6, phường F, Thành phố Phan Thiết, là chồng của chị E) đến gặp bảo vệ bệnh viện để xem camera của bệnh viện thì phát hiện vào lúc 01 giờ 30 phút ngày 16/3/2021 có một nam thanh niên mặc áo sơ mi dài tay sọc trắng đen, quần jeans đen, đi dép nhựa màu đen, đội nón kết màu đen và đeo khẩu trang y tế đứng ở hành lang bệnh viện và đi vào phòng số 01. Sau đó chị G và anh O tới Công an phường M trình báo sự việc. Qua xác minh, công an phường M đã mời Nguyễn Văn A lên làm việc. Tại công an phường, A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng của vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, số Imei:

353989105461070; 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đen.

Cả hai vật chứng Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 114 ngày 28/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự TP Phan Thiết (định giá qua hồ sơ) kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, số Imei: 353989105461070. Tổng giá trị tài sản là 12.720.000 đồng.

Đối với điện thoại di động hiệu Vivo, màu xanh đen, do không thu hồi được nên Hội đồng định giá không có cơ sở để định giá tài sản.

Về trách nhiệm dân sự:

Chị Nguyễn Thị E yêu cầu Nguyễn Văn A bồi thường 5.000.000 đồng đối với chiếc điện thoại di động Iphone 11. Chị Đặng Thị G yêu cầu A bồi thường 2.000.000 đồng đối với chiếc điện thoại di động Vivo, đến nay A chưa thực hiện nghĩa vụ bồi thường này.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Phan Thiết: Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng số 216/CT - VKS - PT, ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Phan Thiết.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn A từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giam Thi hành án.

Về tang vật chứng: Vật chứng của vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, số Imei: 353989105461070; 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đen. Do cả hai vật chứng Cơ quan điều tra không thu hồi được nên buộc bị cáo bồi thường.

Ý kiến của người bị hại: chị E và chị G có đơn xin xét xử vắng mặt, không yêu cầu gì về hình sự đối với bị cáo A.

Về dân sự: chị E yêu cầu A bồi thường 5.000.000 đồng đối với chiếc điện thoại di động Iphone 11, chị G yêu cầu A bồi thường 2.000.000 đồng đối với chiếc điện thoại di động Vivo.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Trịnh Văn J có đơn xin xét xử vắng mặt, về hình sự không có ý kiến về dân sự không yêu cầu gì.

Căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân dân Thành phố Phan Thiết: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Văn A đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng số 216/CT/VKS - PT, ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Phan Thiết đã truy tố. Bị cáo khẳng định những lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra là hoàn toàn tự nguyện đúng sự thật, bị cáo không bị bức cung và Cáo trạng truy tố là đúng, không oan cho bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại cũng như các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận, khoảng 01 giờ 30 phút ngày 16/3/2021, tại phòng bệnh số 1(lầu 2)-Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Thuận Nguyễn Văn A đã lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động Iphone 11, màu đen của chị Nguyễn Thị E trị giá 12.720.000 đồng và điện thoại di động hiệu Vivo, màu xanh đen của chị Đặng Thị G.

Vì vậy, Cáo trạng số 216/CT/VKS - PT, ngày 30.11.2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Phan Thiết truy tố bị cáo Nguyễn Văn A về tội “ Trộm cắp tài sản ” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn A là công dân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là hành vi vi phạm pháp luật. Bị cáo đã phạm tội trộm cắp 02 điện thoại di động hiệu Iphone 11 và hiệu Vivo trị giá 12.720.000 đồng, với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại tới quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo nhân thân xấu, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội mới với lỗi cố ý nên trong lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS nên cần phải tuyên phạt bị cáo bằng một mức án nghiêm khắc đủ để răn đe, giáo dục và tuyên truyền phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: khi quyết định hình phạt sẽ xem xét cho bị cáo, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã J khẩn khai báo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo, trên cơ sở cân nhắc tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo thấy rằng, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo trở J người có ích cho xã hội.

[5] Về ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Phan Thiết: về việc áp dụng pháp luật, mức hình phạt là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: Vật chứng của vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, số Imei: 353989105461070; 01 điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh đen. Do cả hai vật chứng Cơ quan điều tra không thu hồi được nên buộc bị cáo bồi thường cho chị E 5.000.000 đồng đối với điện thoại di động Iphone 11, chị G 2.000.000 đồng đối với điện thoại di động Vivo, như yêu cầu của các bị hại. Ngoài nghĩa vụ bồi thường, bị cáo còn phải nộp án phí dân sự theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Văn A phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ: điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn A 02(Hai) năm 06(Sáu) tháng tù giam, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giam thi hành án.

2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Văn A phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 350.000 án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo Nguyễn Văn A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (24/12/2021). Các bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 196/2021/HS-ST

Số hiệu:196/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về