Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC BÌNH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 19/2023/HS-ST NGÀY 22/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 22 tháng 02 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2023/HSST, ngày 13/01/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2023/QĐXXST-HS ngày 08/02/2023 đối với bị cáo:

Phan Hữu S (tên gọi khác: Nhí T), sinh năm 2000, tỉnh Bình Thuận HKTT và chỗ ở hiện nay: Khu phố H, thị trấn C, huyện B, tỉnh Bình Thuận; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Phan Hữu T và bà Trần Thị Thanh D; Anh, chị, em ruột: có 01 người sinh năm 1996; Vợ, con: chưa có.

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 29/3/2017 bị Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình xử phạt 15 tháng tù, về tội: “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án đến ngày 05/01/2018 về địa phương. (không tính tiền án do phạm tội dưới 18 tuổi) Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 29/10/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bắc Bình và có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Bà Lư Nữ Ngọc Lan T, sinh năm 1980 Địa chỉ: Thôn B1, xã P, huyện B, tỉnh Bình Thuận;

- Ông Nguyễn Văn B2, sinh năm 1955 Địa chỉ: Khu phố X, thị trấn C, huyện B, tỉnh Bình Thuận;

- Ông Hấp Quang T2, sinh năm 1993 Địa chỉ: Thôn B3, xã P1, huyện B, tỉnh Bình Thuận

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Hữu S (Nhí T), sinh năm 2000, ở khu phố Hiệp Ph, thị trấn Chợ L, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận là đối tượng nghiện ma túy. Trong khoảng thời gian từ ngày 07/4/2022 đến ngày 26/4/2022, S đã 03 lần trộm cắp tài sản của người dân bán lấy tiền mua ma túy sử dụng, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 07/4/2022, S đi bộ từ nhà ra khu phố Xuân An 2, thị trấn Chợ L, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận để tìm nhà dân nào để tài sản sơ hở thì vào lấy trộm. Khi S đi ngang qua nhà bà Nguyễn Thị Đ ở khu phố Xuân An 2, thị trấn Chợ L, huyện Bắc Bình thì thấy trong sân nhà có để nhiều xe mô tô, không có ai trông coi nên S nảy sinh ý định đi vào lấy trộm xe mô tô bán lấy tiền mua ma túy sử dụng. S đi đến mở cửa cổng (cửa không khóa, chỉ cài chốt) đi vào trong sân đến nơi dựng chiếc xe mô tô nhãn hiệu Boss, màu nâu, biển số 86H8-X của bà Lư Nữ Ngọc Lan T, sinh năm 1980 ở thôn Bình Th, xã Phan H, huyện Bắc Bình, S dùng tay giật lấy dây điện ở gần bộ phận khóa xe rồi leo lên xe đạp nổ máy chạy đi về hướng thị trấn Phan Rí C để tìm người bán, S điều khiển xe đến khu vực chợ Phan Rí C cũ gần bãi xe Minh Ngh ở thị trấn Phan Rí C, huyện Tuy Phong thì S gặp một người phụ nữ mua ve chai dạo (không rõ lai lịch), S hỏi người phụ nữ mua ve chai có mua xe cũ không thì người phụ nữ trên nói mua, S và người phụ nữ trên thỏa thuận giá bán chiếc xe trên là 400.000 đồng, S giao xe và người phụ nữ đưa cho S số tiền 400.000 đồng, S cầm lấy số tiền trên đi mua ma túy sử dụng.

Lần thứ hai: Vào khoảng 10 giờ ngày 20/4/2022, S đi bộ từ nhà đến nhà Nguyễn Thị Thanh T (H Less), sinh năm 2000 ở khu phố Xuân An 1, thị trấn Chợ L, huyện Bắc Bình để đòi tiền của S cho T mượn trước đó. Khi đến thì S thấy T đang ngủ ở phòng trước, không có ai ở nhà, S thấy xe mô tô hiệu Honlei, màu đen xám, biển số 86R1-X của Nguyễn Văn B2, sinh năm 1955 ở khu phố Xuân An 1, thị trấn Chợ L, huyện Bắc Bình đang dựng ở trong sân trước nhà, S nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô trên bán lấy tiền mua ma túy sử dụng nên S đi đến nơi dựng chiếc xe, S dùng tay kéo đứt dây điện ở bộ phận khóa xe và dắt ra đường Quốc lộ 1A, đạp nổ máy rồi điều khiển xe chạy đến chợ Phan Rí C cũ gần bãi xe Minh Ngh ở thị trấn Phan Rí C, huyện Tuy Phong để tìm người phụ nữ mua ve chai dạo (không rõ lai lịch) đã mua chiếc xe 86H8-X mà S bán vào ngày 07/4/2022 để bán, S chạy vòng vòng một lúc thì gặp người phụ nữ mua ve chai dạo, S nói bán chiếc xe 86R1- X cho người phụ nữ mua ve chai dạo với giá 400.000 đồng thì người phụ nữ trên đồng ý. S giao xe và người phụ nữ đưa cho S số tiền 400.000 đồng, S cầm lấy số tiền trên đi mua ma túy sử dụng.

Lần thứ ba: Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 26/4/2022, S đi bộ từ nhà ra Quốc lộ 1A để đi lên nhà Nguyễn Thị Thanh T ở khu phố Xuân An 1, thị trấn Chợ L, huyện Bắc Bình rủ T đi mua ma túy sử dụng. Khi S đi đến tiệm tạp hóa Phương H ở khu phố Hiệp Ph, thị trấn Chợ L, huyện Bắc Bình thì S thấy xe mô tô nhãn hiệu Tiama, màu nâu, biển số 86S1-X của ông Hấp Quang Th, sinh năm 1993 ở thôn Bình H, xã Phan H, huyện Bắc Bình đang đựng trước cửa tiệm, trên xe có cắm sẵn chìa khóa. Thấy vậy S nảy sinh ý định trộm cắp xe mô tô trên để bán kiếm tiền mua ma túy sử dụng, S quan sát xung quanh thấy không có ai để ý nên liền đi đến leo lên xe mô tô trên, mở khóa xe nổ máy chạy đi về hướng xã Phan H. Khi S điều khiển xe mô tô trên đến thôn Bình H, xã Phan H, huyện Bắc Bình thì bị người dân chặn xe lại bắt giữ S cùng chiếc xe mô tô biển số 86S1-X rồi gọi báo Công an thị trấn Chợ L. Công an thị trấn Chợ L đến đưa S cùng xe mô tô biển số 86S1- X về trụ sở làm việc, tại đây S thừa nhận lấy trộm chiếc xe mô tô trên của ông Hấp Quang Th, đồng thời khai nhận thêm 02 vụ trộm xe mô tô biển số 86H8-X ngày 07/4/2022 và xe mô tô biển số 86R1-X ngày 20/4/2022.

Theo Kết luận định giá tài sản số 32/2022/KL-HĐĐGTS ngày 09/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bắc Bình, kết luận:

- Xe mô tô biển số 86H8-X, nhãn hiệu Boss, màu nâu, số máy VMESE1242853, số khung RLGSB10AD5H242853, mua mới năm 2006 bị trộm cắp ngày 07/4/2022, đơn giá 13.000.000 đồng/chiếc, chất lượng còn lại 35%, thành tiền 4.550.000 đồng.

- Xe mô tô biển số 86R1-X, nhãn hiệu Honlei, màu đen xám, số máy 2FMH- VB04101, số khung 9MN8H014101, mua cũ 2002 bị trộm cắp ngày 20/4/20252, đơn giá 4.500.000 đồng/chiếc, chất lượng còn lại 20%, thành tiền 900.000 đồng.

- Xe mô tô biển số 86S1-X, nhãn hiệu Tianma, màu nâu, số máy MG*025026226*, số khung 012TA-003089, mua cũ vào năm 2014 bị trộm cắp vào ngày 26/4/2022, đơn giá 2.000.000 đồng, chất lượng còn lại 20%, thành tiền 400.000 đồng.

Tổng cộng: 5.850.000 đồng.

Về tang, vật chứng: Công an thị trấn Chợ L thu giữ xe mô tô biển số 86S1- X, nhãn hiệu Tianma, màu nâu, số máy MG*025026226*, số khung 012TA- 003089, sau đó chuyển cho Cơ quan điều tra. Sau khi định giá, Cơ quan điều tra giao trả xe mô tô biển số 86S1-X, nhãn hiệu Tianma, màu nâu, số máy MG*025026226*, số khung 012TA-003089 cho ông Hấp Quang Th theo quy định.

Phan Hữu S khai bán xe mô tô biển số 86H8-X, nhãn hiệu Boss, màu nâu, số máy VMESE1242853, số khung RLGSB10AD5H242853 và xe mô tô biển số 86R1- X, nhãn hiệu Honlei, màu đen xám, số máy 2FMH-VB04101, số khung 9MN8H014101 cho một người phụ nữ (không rõ lai lịch) mua phế liệu dạo ở khu vực chợ Phan Rí C cũ. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được người phụ nữ đó là ai. Vì vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Về phần dân sự: Ông Hấp Quang Th đã nhận lại xe mô tô biển số 86S1-X, nhãn hiệu Tianma, màu nâu, số máy MG*025026226*, số khung 012TA-003089 do Cơ quan điều tra giao trả và không yêu cầu bồi thường nên không xem xét giải quyết.

Xe mô tô biển số 86H8-X, nhãn hiệu Boss, màu nâu, số máy VMESE1242853, số khung RLGSB10AD5H242853 và xe mô tô biển số 86R1-X, nhãn hiệu Honlei, màu đen xám, số máy 2FMH-VB04101, số khung 9MN8H014101, S khai bán cho một người phụ nữ mua phế liệu dạo (không rõ lai lịch) không thu hồi được, Lư Nữ Ngọc Lan T yêu cầu Phan Hữu S bồi thường số tiền 6.500.000 đồng và Nguyễn Văn B2 yêu cầu Phan Hữu S bồi thường số tiền 1.000.000 đồng. Phan Hữu S đồng ý bồi thường cho Lư Nữ Ngọc Lan T và Nguyễn Văn B2 theo yêu cầu của Tr và B2, hiện S chưa bồi thường.

Bị cáo Phan Hữu S là công dân có đầy đủ năng lực, trách nhiệm hình sự, tài sản của công dân là được pháp luật bảo vệ nhưng bị cáo đã lén lút trộm cắp tài sản của Hấp Quang Th, Lư Nữ Ngọc Lan T và ông Nguyễn Văn B2. Hành vi phạm tội nêu trên của các bị cáo S đã xâm hại đến tài sản của người khác gây mất trật tự trị an tại địa phương. Tổng tài sản thiệt hại là 5.850.000 đồng, trong đó Phan Hữu S trộm cắp tài sản 01 lần có trị giá trên 2.000.000 đồng. Hành vi trộm cắp tài sản nêu trên của S đã phạm vào tội: “Trộm cắp tài sản”.

Tại bản cáo trạng số 17/ CT-VKS.HBB ngày 12 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình truy tố bị cáo Phan Hữu S, về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố và tranh luận vẫn giữ nguyên cáo trạng và đề nghị áp dụng:

- Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Phan Hữu S, mức án từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về phần dân sự: Điểm b khoản 1 Điều 46 và khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586 Điều 589, Điều 357 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo S bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà Lư Nữ Ngọc Lan T số tiền 4.550.000 đồng và bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Nguyễn Văn B2 số tiền 900.000 đồng Về vật chứng: Xe mô tô biển số 86H8-X, nhãn hiệu Boss, màu nâu, số máy VMESE1242853, số khung RLGSB10AD5H242853 và xe mô tô biển số 86R1-X, nhãn hiệu Honlei, màu đen xám, số máy 2FMH-VB04101, số khung 9MN8H014101, S khai bán cho một người phụ nữ mua phế liệu dạo không thu hồi được nên không xem xét.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo không đề nghị gì với Hội đồng xét xử.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan điều tra – Công an huyện Bắc Bình, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo và bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại và tại phiên tòa bị cáo và bị hại cũng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, trình tự thủ tục tố tụng cũng như các quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2] Về chứng cứ và hành vi của bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Hữu S đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu, bị cáo khẳng định những lời khai của mình trong quá trình điều tra vụ án là hoàn toàn tự nguyện, không bị bức cung, ép cung và cáo trạng truy tố là hoàn toàn đúng, không oan. Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, kết luận định giá tài sản và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: tại thị trấn Chợ L, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận do Phan Hữu S thực hiện, cụ thể: Lần thứ nhất: Vào ngày 07/4/2022, S lấy trộm 01 (một) xe mô tô biển số 86H8-X của Lư Nữ Ngọc Lan T trị giá 4.550.000 đồng. Lần thứ hai: Vào ngày 20/4/2022, S lấy trộm 01 (một) xe mô tô biển số 86R1- X của Nguyễn Văn B2 trị giá 900.000 đồng. Lần thứ ba: Vào ngày 26/4/2022, S lấy trộm 01 (một) xe mô tô biển số 86S1-X của Hấp Quang Th trị giá 400.000 đồng thì bị phát hiện. Tổng giá trị tài sản 03 lần Phan Hữu S trộm cắp là 5.850.000 đồng.

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bắc Bình truy tố bị cáo Phan Hữu S về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo:

Bị cáo Phan Hữu S là công dân có đầy đủ năng lực, trách nhiệm hình sự. Bị cáo S biết hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vì bản tính tham lam, muốn có tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy sử dụng, bị cáo đã lén lút trộm cắp tài sản của anh Hấp Quang Th, bà Lư Nữ Ngọc Lan T và ông Nguyễn Văn B2. Hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo S đã xâm hại đến tài sản của người khác gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần xử lý thỏa đáng đúng tính chất mức độ và hậu quả việc phạm tội của bị cáo.

Tuy nhiên trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa các bị cáo khai báo thành khẩn là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại các điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Với tính chất mức độ phạm tội của bị cáo trên cơ sở cân nhắc các tình tiết của vụ án xét thấy r ng cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nh m giáo dục bị cáo trở thành người tốt, công dân có ích cho xã hội, đồng thời qua đó nh m răn đe giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Về phần bồi thường dân sự: Tại phiên Tòa bị hại bà Lư Nữ Ngọc Lan T yêu cầu bị cáo Phan Hữu S bồi thường thiệt hại về tài sản số tiền 4.550.000 đồng và ông Nguyễn Văn B2 yêu cầu bị cáo S bồi thường thiệt hại về tài sản cho số tiền 900.000 đồng. Bị cáo S đồng ý bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà Tr và ông B2. Xét đây là sự thỏa thuận của các bên và sự thỏa thuận này không vi phạm pháp luật nên Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các bên buộc bị cáo S phải bồi thường về tài sản cho bà Lư Nữ Ngọc Lan T số tiền 4.550.000 đồng và bồi thường thiệt hại về tài sản cho Nguyễn Văn B2 số tiền 900.000 đồng.

[5] Về vật chứng vụ án: Xe mô tô biển số 86H8-X, nhãn hiệu Boss, màu nâu, số máy VMESE1242853, số khung RLGSB10AD5H242853 và xe mô tô biển số 86R1-X, nhãn hiệu Honlei, màu đen xám, số máy 2FMH-VB04101, số khung 9MN8H014101, S khai bán cho một người phụ nữ mua phế liệu dạo không thu hồi được nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Tuyên bố bị cáo Phan Hữu S phạm tội “Trộm cắp tài sản” Xử phạt: Bị cáo Phan Hữu S 15 (Mười lăm) tháng tù, thời gian ở tù tính từ ngày 29/10/2022.

Về phần dân sự: Điểm b khoản 1 Điều 46 và khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586 Điều 589, Điều 357 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Phan Hữu S bồi thường thiệt hại về tài sản cho bà Lư Nữ Ngọc Lan T số tiền 4.550.000 đồng và bồi thường thiệt hại về tài sản cho ông Nguyễn Văn B2 số tiền 900.000 đồng.

Trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất 10%.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Bị cáo S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt, bị hại Lư Ngọc Nữ Lan Tr và ông Nguyễn Văn B2 có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 22/02/2023.

Bị hại Hấp Quang Th vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết công khai bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 19/2023/HS-ST

Số hiệu:19/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Bình - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về