Bản án về tội trộm cắp tài sản số 187/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 187/2022/HS-ST NGÀY 09/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 05 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 161/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 04 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 181/2022/QĐXXST- HS ngày 28 tháng 04 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn C, sinh năm 2002 tại Đồng Nai; Hộ khẩu thường trú: Tổ 19A, khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Trình độ học vấn: 06/12 ; Nghề nghiệp: Không. Họ tên cha: Nguyễn Văn C - Sinh năm 1967; Họ tên mẹ: Huỳnh Thị Thanh G - sinh năm 1968; Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án, tiền sự: không - Nhân thân : Ngày 05/09/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 08 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” Chấp hành xong ngày 19/03/2021.

Bị cáo bị bắt ngày 17/12/2021. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Thành phố B.

- Bị hại:

1. Đinh Ngọc Q, sinh năm 1991. (có mặt) Địa chỉ: 140/6, khu phố 5, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

2.Võ Văn H, sinh năm 1967. (có mặt) Địa chỉ: K4/68A tổ 55, khu phố 3, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

3. Nguyễn Văn L, sinh năm 1972( vắng mặt) Địa chỉ: 71A, khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn C là người sống lang thang và không có nghề nghiệp. Để có tiền tiêu xài, từ ngày 27/11/2021 đến ngày 05/12/2021 C đã cùng đối tượng tên Đ (chưa rõ họ, địa chỉ) thực hiện các vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố B, cụ thể như sau:

Vụ thứ 01: Khoảng 01 giờ ngày 27/11/2021, C cùng đối tượng tên Đ (chưa rõ họ, địa chỉ) rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Khi cả hai đi bộ đến trước cửa hàng nội thất “Nam Anh” ở số 140/6, đường P, khu phố 5, phường T, thành phố B của anh Đinh Ngọc Q, ngụ tại X9, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định làm chủ thì phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Superdream, biển số 18F1- 093.18 của anh Q đang được dựng trước cửa hàng nên Đ đứng bên ngoài cảnh giới để C đi vào bên trong lấy trộm xe mô tô trên dắt ra ngoài. Sau đó, C ngồi lên điều khiển xe để Đ chạy bộ đẩy phía sau và tẩu thoát. Sau khi lấy trộm được xe thì C và Đ dùng tua vít tháo dây điện để khởi động máy rồi C điều khiển xe mô tô trên đi đến khu vực tỉnh Bình Dương bán cho 01 đối tượng tên N (chưa rõ họ, địa chỉ) được 4.000.000đ (Bốn triệu đồng), số tiền này C và Đ chia nhau mỗi người 2.000.000đ (Hai triệu đồng) tiêu xài và chơi game bắn cá hết.

Vật chứng vụ án: 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Superdream, biển số 18F1- 093.18 do Nguyễn Văn C đã bán cho đối tượng tên N (không rõ họ, địa chỉ) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B chưa thu hồi được.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 503/KL-HĐĐGTS ngày 20/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B đã kết luận: “01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Superdream, biển số 18F1- 093.18 có giá trị định giá là 5.000.000đ (Năm triệu đồng).

Về dân sự: anh Đinh Ngọc Q yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn C bồi thường 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng). Hiện C chưa bồi thường.

Vụ thứ 02: Khoảng 22 giờ ngày 29/11/2021, C cùng đối tượng tên Đ (chưa rõ họ, địa chỉ) tiếp tục rủ nhau đi trộm cắp tài sản. Khi đi bộ qua dãy nhà trọ số K4/68A, khu phố 3, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì cả hai phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu Fashion, biển số 67L1- 2185 của ông Võ Văn H, ngụ tại xã Đ, huyện A, tỉnh Kiên Giang đang dựng trước cửa phòng trọ và trên xe có cắm sẵn chìa khóa nên Đ đứng bên ngoài cảnh giới, còn C đi vào lấy trộm xe dắt ra ngoài rồi khởi động máy chở Đ tẩu thoát. Sau đó, C đem xe mô tô trên đổi cho một đối tượng có biệt danh “B” (không rõ họ tên thật, địa chỉ) để lấy 01 (một) xe mô tô khác (không rõ biển số) rồi mang đi bán cho 01 người không rõ họ tên, địa chỉ được 1.000.000 (Một triệu đồng) và tiêu xài cá nhân hết.

Vật chứng vụ án: 01 (một) xe mô tô nhãn Fashion, biển số 67L1- 2185. Sau khi lấy trộm, C đã mang đổi cho đối tượng có biệt danh “B” (chưa rõ họ tên, địa chỉ) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B chưa thu hồi được.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 502/KL-HĐĐGTS ngày 20/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B đã kết luận: “01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Fashion, biển số 67L1-2185 có giá trị định giá là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

Về dân sự: ông Võ Văn H yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn C bồi thường 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng). Hiện C chưa bồi thường.

Vụ thứ 03: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 05/12/2021, C đi bộ đến đoạn đường trước nhà số 3/5A, khu phố L, phường L, thành phố B thì phát hiện 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 60S8-9381 của anh Nguyễn Văn L, ngụ tại số 71A, khu phố 2, phường A, thành phố B đang dựng trước nhà và trên ổ khoá xe có cắm chìa khoá nên C đi đến lấy trộm rồi khởi động máy và điều khiển xe tẩu thoát. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, anh L đã trình báo Công an phường L. Đến ngày 16/12/2021, tổ tuần tra công an thành phố B phát hiện C điều khiển xe mô tô biển số 60S8 - 9381 đi trên đường có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra hành chính thì phát hiện C sử dụng xe mô tô trộm cắp nên đã lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B điều tra, xử lý.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển số 60S8- 9381, màu xanh, số khung 294879, số máy 029491. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu hồi và trả lại cho anh Nguyễn Văn L.

- 01 (một) đoản phá khóa dài khoảng 07 cm của bị cáo Nguyễn Văn C dùng để bẻ khoá xe mô tô.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 501/KL-HĐĐGTS ngày 20/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B đã kết luận “01 (một) xe mô tô biển số 60S8- 9381, nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh có giá trị định giá là 3.000.000đ (Ba triệu đồng).

Về dân sự: anh Nguyễn Văn L đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường.

Bản cáo trạng số 190/CT-VKSBH ngày 13/04/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn C về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS; xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời khai của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận bị cáo C đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của anh Đinh Ngọc Q 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Superdream, biển số 18F1- 093.18 có giá trị định giá là 5.000.000đ (Năm triệu đồng); trộm cắp tài sản của ông Võ Văn H 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Fashion, biển số 67L1-2185 có giá trị định giá là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) và trộm cắp tài sản của anh Nguyễn Văn L 01 (một) xe mô tô biển số 60S8- 9381, nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh có giá trị định giá là 3.000.000đ (Ba triệu đồng). Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B truy tố bị cáo về tội: “trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng với pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, tài sản hợp pháp được pháp luật bảo hộ. Hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Cần có mức án đủ nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội [4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo có nhân thân xấu. Trong vụ án nay bị cáo thực hiện hành vi 03 lần trộm cắp tài sản, là tình tiết tăng nặng theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, nên cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải bồi thường cho anh Đinh Ngọc Q 9.000.000đ (Chín triệu đồng) và bồi thường cho ông Võ Văn H 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

[6] Vật chứng của vụ án: tịch thu tiêu hủy 01 (một) đoản phá khóa dài khoảng 07 cm của bị cáo Nguyễn Văn C dùng để bẻ khoá xe mô tô.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C 02 (hai) năm tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2021.

2.Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật hình sự năm 2015. Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) đoản phá khóa dài khoảng 07 cm của bị cáo Nguyễn Văn C dùng để bẻ khoá xe mô tô. (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/2/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B và chi cục Thi hành án dân sự thành phố B).

3.Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Căn cứ khoản 2 Điều 468, Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015;

Buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải bồi thường cho anh Đinh Ngọc Q 9.000.000đ (Chín triệu đồng) và bồi thường cho ông Võ Văn H 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về án Phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo Nguyễn Văn C phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST và án phí dân sự sơ thẩm là 525.000 đồng.

Bị cáo Nguyễn Văn C và anh Đinh Ngọc Q, ông Võ Văn H được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn L được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 187/2022/HS-ST

Số hiệu:187/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về