Bản án về tội trộm cắp tài sản số 184/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 184/2023/HS-ST NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 5 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức (địa chỉ: số 18 đường số 6, khu phố 5, phường Linh Chiểu, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh), xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 144/2023/HSST ngày 13 tháng 4 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 171/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2023, đối với các bị cáo:

1/ Lê Quang T (tên gọi khác: M), sinh năm 1992; Giới tính: Nam; nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 475/9F đường H, khu phố x, phường V, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh. Nơi cư trú: Nhà không số (kế bên nhà 606/44/17), đường Q, khu phố y, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; Trình độ văn hóa: 2/12; Nghề nghiệp: Thợ sơn nước; Con ông Lê Văn G và bà Nguyễn Thị N; Vợ Phạm Thị Thúy H, bị cáo có 01 con; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 23/9/2022 (có mặt)

2/ Võ Thành D (tên gọi khác: D), sinh năm 1967; Giới tính: Nam; nơi sinh: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: 255/6/40 đường N, phường X, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; Nơi cư trú: số 563 đường Q, khu phố m, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Sửa xe; Con ông Võ Văn H1 (chết) và bà Nguyễn Thị H2 (chết); Vợ Vũ Thị T1, bị cáo có 01 con sinh năm 1996;; Tiền án: không; Tiền sự: không;

Nhân thân:

- Ngày 12/7/1994, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 11 tháng tù về tội “Tàng trữ vũ khí trái phép” theo Bản án số 715/HSST. Bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 14/7/1994.

- Ngày 29/12/2006, Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước xử phạt 03 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy” theo Bản án số 82/2006/HSST. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/02/2009; nộp án phí hình sự sơ thẩm ngày 12/5/2008;

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 23/9/2022 (có mặt).

- Bị hại:

1/ Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1992 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 35 Đường x, khu phố y, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Anh Nguyễn Văn T2, sinh năm 1994 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 35 Đường x, khu phố y, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Chị Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1973 (vắng mặt) Địa chỉ: số 4 đường z, khu phố k, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

2/ Anh Cao Minh M, sinh năm 1994 (vắng mặt) Địa chỉ: 565A đường Q, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Khoảng 23 giờ ngày 23/7/2022, Lê Quang T đi bộ về ngang qua nhà số số 35 Đường x, khu phố y, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện tại trước nhà có để 01 xe mô tô hiệu Honda Vision màu xanh biển số 47D1-178.xx và 01 xe mô tô hiệu Honda Wave RSX màu đen, đỏ biển số 59G2-182.xx dựng trong sân nhà số số 35 Đường x, khu phố y, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài. T tìm gần cửa cổng căn nhà thấy một cây sắt tròn dài khoảng 50cm nên nhặt lấy để phá chốt cửa rồi mở cửa cổng đi vào bên trong, sau đó lần lượt dẫn bộ 02 xe mô tô biển số 47D1-178.xx và xe mô tô biển số 59G2-182.xx về nhà trọ tại phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh (cách nơi lấy xe khoảng 500 mét) để cất giấu. Vài ngày sau, T điều khiển xe mô tô biển số 59G2- 182.xx đi cùng B (không rõ nhân thân) đến gặp Võ Thành D tại tiệm sửa xe, địa chỉ số số 563 đường Q, khu phố m, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh, T nói cho D biết xe mô tô trên là do T trộm cắp được nên nhờ D bán giúp và hứa cho D tiền khi bán được xe, D đồng ý. Sau đó, D điều khiển xe đi cùng với B đến nhà của chị Nguyễn Thị Hồng N (sinh năm 1973) tại địa chỉ số số 4 đường z, khu phố k, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh để bán xe cho chị N với giá 2.000.000 đồng và mang về đưa cho T, sau đó D được T cho lại D 100.000 đồng từ việc bán xe. Khoảng 01 tháng sau, T mang xe mô tô hiệu Honda Vision biển số 47D1-178.xx đến bán cho một người không rõ nhân thân lai lịch tại chợ đầu mối Thủ Đức với giá 3.000.000 đồng.

Kết luận định giá tài sản số 353-KV3/KLĐG-HĐĐGTS ngày 30/9/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân thành phố Thủ Đức kết luận: Xe mô tô Honda Wave RSX màu đen, đỏ biển số 59G2-182.xx trị giá 5.833.000 đồng và xe mô tô hiệu Honda loại Vision màu xanh, biển số 47D1-178.xx trị giá 13.833.000 đồng. Tổng cộng là 19.666.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Quang T khai nhận hành vi phạm tội như trên. Ngoài ra, T còn khai nhận khoảng tháng 9/2022, T cùng với P (chưa rõ lai lịch) lấy trộm 01 xe ba gác tại phường L, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh và bán cho một người phụ nữ (không rõ lai lịch) tại Quận 12 với giá 2.000.000 đồng và cùng với một người tên P1 (chưa rõ lai lịch) lấy trộm 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius (không rõ biển số) tại huyện G, tỉnh Tiền Giang, bán được số tiền 1.700.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Võ Thành D khai nhận hành vi phạm tội như trên. Ngoài ra, D còn khai nhận giới thiệu cho anh Cao Minh M (sinh năm 1994; cư trú: 565A đường Q, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh) mua xe mô tô hiệu Honda Airblade màu vàng, đen biển số 59C2-532.xx của người tên “Đ” (chưa rõ lai lịch) với giá 3.500.000 đồng.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, chị Nguyễn Thị Hồng N khai nhận: Khi Võ Thành D giới thiệu chị N mua xe mô tô hiệu Honda Wave RSX màu đen đỏ, biển số 59G2-182.xx, D không nói cho chị N biết nguồn gốc của xe mô tô trên. Sau đó chị N đã bán lại xe mô tô biển số 59G2-182.xx cho một người tên “Đ” (không rõ lai lịch) do D giới thiệu với giá 2.500.000 đồng, sau khi bán được xe thì chị N cho D số tiền 100.000 đồng. Chị N không biết tài sản trên là do T trộm cắp mà có.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, anh Cao Minh M khai nhận: Khi Võ Thành D giới thiệu anh M mua xe mô tô hiệu Honda Airblade màu vàng, đen biển số 59C2-532.xx, D và người bán không nói cho anh M biết nguồn gốc của xe mô tô trên.

Kết quả xác minh xe mô tô hiệu Honda loại Vision màu xanh, biển số 47D1-178.xx do chị Nguyễn Thị P đứng tên chủ sở hữu.

Kết quả xác minh xe mô tô hiệu Honda Wave RSX màu đen đỏ, biển số 59G2-182.xx do chị Trần Thị H đứng tên chủ sở hữu. Qua làm việc, chị H cho biết đã bán lại xe mô tô trên cho anh Nguyễn Văn T2 vào năm 2018, không làm thủ tục sang tên.

+ Vật chứng thu giữ:

Tạm giữ của chị Nguyễn Thị Hồng N:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng, biển số 66F1-183.xx, số khung: XDY300127, số máy: 33E-0370513 do chị Nguyễn Thị Hồng N mua lại của chị Mai Thị Cẩm H1, chị H1 xác nhận có bán xe mô tô trên cho chị N. Ngày 19/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức ra Quyết định xử lý tài sản trả lại xe mô tô trên cho chị Nguyễn Thị Hồng N.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ đen, biển số 59X2-573.xx, số khung 5261DY-191607, số máy: JC52E-1171417. Xác minh được biết xe mô tô trên do chị Nguyễn Thị Thanh D đứng tên chủ sở hữu và bị mất trộm tại trước nhà số B7 đường L, phường L, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Thủ Đức đã chuyển xe mô tô trên theo hồ sơ vụ án “Trộm cắp tài sản” xảy ra ngày 18/9/2022 tại trước nhà số B7 đường L, phường L, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ, biển số 6B3-489.xx, do chị Nguyễn Thị Hồng N cầm cố của một người phụ nữ tên L (không rõ lai lịch). Kết luận giám định số 49/KL-KTHS ngày 21/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: số khung, số máy mài mất số, không xác định được số nguyên thủy. Tiến hành xác minh chủ sở hữu đối với xe có biển số 60B3-489.61 do anh Phan Thanh T (sinh năm 1995, nơi cư trú: tổ 1, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai) đứng tên chủ sở hữu đối với xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh đen bạc, số khung RLHJA3900HY120528, số máy: JA39E0120584. Anh T cho biết bị mất trộm xe trên tại phường H, thành phố Thủ Đức vào năm 2019 nhưng anh T không đến cơ quan Công an trình báo.

Tạm giữ của anh Cao Minh M:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh, biển số 60H6-53xx, số khung: FT110-000000218, số máy: HD1P53FMH-00005018 do anh Cao Minh M cầm cố của một người tên S (không rõ lai lịch). Kết luận giám định số 50/KL-KTHS ngày 21/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: số khung, số máy không thay đổi. Qua xác minh, số khung, số máy như trên là của xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY của anh Phạm Văn D1 (sinh năm 1974; thường trú: thôn B, xã H, huyện X, tỉnh Đồng Nai), anh D1 đã bán lại xe mô tô trên cho một người (không rõ lai lịch), không làm thủ tục sang tên.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade màu vàng, đen, biển số 59C2-532.xx, số khung: RLHJF2706BY372239, số máy: JF27E-1220049. Kết luận giám định số 51/KL-KTHS ngày 21/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: số khung, số máy không thay đổi. Tuy nhiên số khung, số máy của xe mô tô trên không có trong cơ sở dữ liệu đăng ký xe mô tô.

Xác minh xe mô tô có biển số 59C2-532.xx là xe mô tô hiệu Honda Wave do chị Nguyễn Thị N1 (cư trú: 106A đường P, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh) đứng tên chủ sở hữu. Hiện tại, xe mô tô trên gia đình chị Nguyễn Thị N1 vẫn đang sử dụng.

+ Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Nguyễn Thị P và anh Nguyễn Văn T2 yêu cầu bị cáo Lê Quang T bồi thường giá trị hai chiếc xe mô tô bị T chiếm đoạt theo Kết luận định giá tài sản.

[2] Bản cáo trạng số 142/CT-VKS-TĐTĐ ngày 03/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Quang T về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Truy tố bị cáo Võ Thành D về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

[3] Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Lê Quang T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Lê Quang T với mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Đề nghị tuyên bố bị cáo Võ Thành D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, theo quy định tại Khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để xử phạt bị cáo Võ Thành D với mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử xử lý đúng theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử buộc bị cáo Lê Quang T bồi thường cho bị hại theo đúng quy định pháp luật.

- Bị cáo Lê Quang T và Võ Thành D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố, các bị cáo không có ý kiến tranh luận, bào chữa gì và nói lời sau cùng rất hối hận, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu chứng cứ thu thập được đủ cơ sở xác định:

Vào khoảng 23 giờ ngày 23/7/2022, Lê Quang T đã có hành vi lén lút lấy trộm 01 xe mô tô hiệu Honda loại Vision màu xanh, biển số 47D1-178.xx trị giá 13.833.000 đồng của chị Nguyễn Thị P và 01 xe mô tô hiệu Honda Wave RSX màu đen đỏ, biển số 59G2-182.xx trị giá 5.833.000 đồng của anh Nguyễn Văn T2 đang dựng trong sân nhà tại địa chỉ số 35 Đường x, khu phố y, phường H, thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau đó, Lê Quang T đem xe mô tô biển số 59G2-182.xx đến gặp Võ Thành D nói cho D biết xe mô tô trên là tài sản do T trộm cắp mà có và nhờ D giới thiệu bán xe. Võ Thành D biết rõ xe do Lê Quang T trộm cắp tài sản mà có nhưng vẫn giới thiệu cho chị Nguyễn Thị Hồng N mua lại xe mô tô hiệu Honda Wave RSX màu đen đỏ, biển số 59G2-182.xx với giá 2.000.000 đồng. Đối với xe mô tô hiệu Honda loại Vision màu xanh, biển số 47D1-178.xx, Lê Quang T đã bán cho một người không rõ nhân thân lai lịch tại chợ đầu mối Thủ Đức với giá 3.000.000 đồng.

Hành vi của bị cáo Lê Quang T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo Võ Thành D đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại Khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Các bị cáo biết rõ hành vi phạm tội của mình sẽ bị pháp luật nghiêm trị, nhưng vẫn phạm tội với lỗi cố ý, thể hiện sự xem thường kỷ cương pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm tương xứng với tính chất và hành vi, hậu quả mà các bị cáo gây ra, áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung.

Đối với hành vi trộm cắp 01 xe ba gác tại phường L, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh và 01 xe mô tô hiệu Sirius (không rõ biển số) tại huyện G, tỉnh Tiền Giang, Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Thủ Đức đã tiến hành xác minh nhưng không có ai đến trình báo, Lê Quang T không xác định được địa điểm cụ thể nên không có căn cứ xử lý.

[3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Riêng bị cáo Lê Quang T phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định của pháp luật.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Riêng bị cáo Võ Thành D có nhân thân xấu, Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc khi quyết định hình phạt.

[5] Đối với chị Nguyễn Thị Hồng N, khi mua xe mô tô hiệu Honda Wave RSX màu đen đỏ, biển số 59G2-182.xx không biết đây là tài sản do Lê Quang T trộm cắp mà có nên không có căn cứ xử lý chị N về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đối với anh Cao Minh M, khi mua và cầm cố các xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh, biển số 60H6-53xx và xe mô tô hiệu Honda Airblade màu vàng, đen, biển số 59C2-532.xx, anh M không biết đây là tài sản do người khác phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý anh M về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Về xử lý vật chứng thu giữ:

- 01 xe mô tô hiệu Honda Vision màu trắng, biển số 66F1-183.xx, do chị Nguyễn Thị Hồng N mua lại của chị Mai Thị Cẩm H, chị H xác nhận có bán xe mô tô trên cho chị N. Ngày 19/12/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức ra Quyết định xử lý tài sản trả lại xe mô tô trên cho chị Nguyễn Thị Hồng N.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ, biển số 6B3-489.xx. Kết luận giám định số 49/KL-KTHS ngày 21/12/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: số khung, số máy mài mất số, không xác định được số nguyên thủy, Hội đồng xét xử tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh, biển số 60H6-53xx, số khung: FT110-000000218, số máy: HD1P53FMH-00005018; 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade màu vàng, đen, biển số 59C2-532.xx, số khung: RLHJF2706BY372239, số máy: JF27E-1220049, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng một thời gian, nếu không có chủ sở hữu đến nhận thì tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là chị Nguyễn Thị P và anh Nguyễn Văn T2 yêu cầu Lê Quang T bồi thường giá trị hai chiếc xe mô tô bị Lê Quang T chiếm đoạt theo Kết luận định giá tài sản.

Kết luận định giá tài sản số 353-KV3/KLĐG-HĐĐGTS ngày 30/9/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự của Uỷ ban nhân dân thành phố Thủ Đức kết luận: Xe mô tô Honda Wave RSX màu đen, đỏ biển số 59G2-182.xx trị giá 5.833.000 đồng và xe mô tô hiệu Honda loại Vision màu xanh, biển số 47D1-178.xx trị giá 13.833.000 đồng.

Xét yêu cầu bồi thường của bị hại là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận buộc bị cáo Lê Quang T bồi thường số tiền 13.833.000 đồng cho chị Nguyễn Thị P và bồi thường số tiền 5.833.000 đồng cho anh Nguyễn Văn T2.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 1. Tuyên bố:

QUYẾT ĐỊNH

+ Bị cáo Lê Quang T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

+ Bị cáo Võ Thành D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

2. Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm i, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Quang T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2022.

3. Áp dụng Khoản 1 Điều 323; điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Thành D 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 23/9/2022.

4. Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Các Điều 584 và Điều 589 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Lê Quang T có nghĩa vụ bồi thường cho chị Nguyễn Thị P số tiền 13.833.000 (mười ba triệu tám trăm ba mươi ba ngàn) đồng; bồi thường cho anh Nguyễn Văn T2 số tiền 5.833.000 (năm triệu tám trăm ba mươi ba ngàn) đồng; tổng cộng số tiền là 19.666.000 (mười chín triệu sáu trăm sáu mươi sáu ngàn) đồng.

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

5. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

- Giao cơ quan Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, cho đăng tải thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 06 tháng để tìm chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với: 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu xanh, biển số 60H6-53xx, số khung: FT110-000000218, số máy: HD1P53FMH-00005018 và 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade màu vàng, đen, biển số 59C2-532.xx, số khung: RLHJF2706BY372239, số máy: JF27E-1220049. Hết thời hạn nêu trên, nếu không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp thì tịch thu, nộp ngân sách nhà nước.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước 01 xe mô tô hiệu Honda Wave màu đỏ, biển số 6B3-489.xx, không xác định được số khung, số máy nguyên thủy; (Theo Phiếu nhập kho số NK23/163C ngày 11/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh).

6. Án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Bị cáo Lê Quang T phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 983.300 (chín trăm tám mươi ba ngàn ba trăm) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Võ Thành D phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

7. Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo Lê Quang T, Võ Thành D có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tòa tuyên án. Đối với người tham gia tố tụng vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

“Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được Thi hành án dân sự, người phải Thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 184/2023/HS-ST

Số hiệu:184/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về