Bản án về tội trộm cắp tài sản số 184/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 184/2022/HS-ST NGÀY 29/08/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 176/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 7 năm 2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 171/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:

Trn Mạnh H, sinh ngày 21/01/2004; HKTT: Khu 6, phường C, thành phố B, tỉnh B; Nơi ở: Khu 2, phường C, thành phố B, tỉnh B; Nghề nghiệp: Học sinh; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Mạnh H3, sinh năm 1973 và bà Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1980; Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Vợ, con: Chưa có;

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 21/4/2022 đến ngày 27/4/2022. Hiện áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 27/4/2022, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Trần Minh H2, sinh năm 1960; Nơi thường trú: C; Nơi ở: Số 342 đường Lý Thường Kiệt, khu 6, phường C, thành phố B, tỉnh B; Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 12/4/2022, Trần Mạnh H, sinh ngày 21/01/2004, HKTT: Khu 6, phường Th, thành phố B, tỉnh B, nơi ở: Khu 2, phường Th, thành phố B, tỉnh B được mẹ là Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm 1980 bảo đi đến nhà ông Trần Minh H2, sinh năm 1960 ở số nhà 342, đường L, khu 6, phường Th, thành phố B, tỉnh B gọi bố là Trần Mạnh H3, sinh năm 1973 về nhà. H điều khiển xe mô tô BKS 99L5-xxxx đến nhà ông H2 để gọi ông H3 về, khi đến nơi H thấy ông H3 đang đứng ở vỉa hè nói chuyện với các bác của H là ông Trần Minh H2; Trần Thúy H4, sinh năm 1963, hiện ở: Khu 4, phường Th, thành phố B, tỉnh B; Trần Thị Thúy H5, sinh năm 1968, định cư: Cộng hòa liên bang Đức; Trần Thị Thúy H6, sinh năm 1971, chỗ ở: Khu Thị, phường K, thành phố B, tỉnh B, thì ông H3 bảo H đi về trước, H lên xe đi về. H đi được một đoạn thì mẹ H là Nguyễn Thị Thu H1 gọi điện bảo H tiếp tục quay lại gọi bố về. H quay lại thấy ông H3 vẫn đang nói chuyện với các bác nên H đi vào phòng khách ở tầng một ngồi ở ghế gỗ bàn uống nước để đợi ông H3. Lúc này, H quan sát thấy trên mặt ghế đôn phía trong bàn uống nước gần vị trí H ngồi có 01 điện thoại Iphone 7Plus, màu đen của ông Trần Minh H2 nên đã sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại này để mang về sử dụng. Lợi dụng mọi người đang ở ngoài, không có ai để ý, H đứng dậy dùng tay phải lấy chiếc điện thoại đút vào túi áo khoác bên pH2 đang mặc rồi quay lại ghế ngồi. Một lúc sau, H đi ra ngoài rồi cùng bố mỗi người điều khiển một xe mô tô đi về nhà. Khi đến đoạn đường Hoàng Quốc V gần Ủy ban nhân dân phường Th, H dừng lại bỏ điện thoại vừa trộm cắp được ra tháo vỏ ốp điện thoại màu vàng và sim của điện thoại rồi vứt vào một thùng rác cạnh vỉa hè và tắt nguồn điện thoại, sau đó tiếp tục đi về nhà. Về đến nhà, H cất giấu điện thoại vào tủ quần áo tầng một của gia đình, đến tối cùng ngày H bỏ ra xóa hết dữ liệu trong điện thoại.

Ngày 17/4/2022, ông Trần Minh H2 đến Công an phường C, thành phố B để trình báo về việc bị trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 7Plus, màu đen đã qua sử dụng.

Ngày 21/4/2022, Trần Mạnh H đến Công an thành phố B đầu thú, tự nguyện giao nộp 01 điện thoại Iphone 7Plus, màu đen đã qua sử dụng và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 21/4/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã yêu cầu định giá tài sản số 230 yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B định giá 01 điện thoại Iphone 7 Plus, màu đen đã qua sử dụng.

Tại bản Kết luận định giá trong tố tụng hình sự số 72/KL-HĐĐGTS ngày 21/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố B kết luận 01 điện thoại Iphone 7Plus, màu đen đã qua sử dụng tại thời điểm chiếm đoạt trị giá 2.700.000 đồng.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 113/CT-VKSTPBN ngày 12/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố Trần Mạnh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố và thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội: “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm b, i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt: Trần Mạnh H từ 06 đến 08 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 16 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND phường Th, thành phố B, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Ngày 03/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả cho ông Trần Minh H2 01 chiếc điện thoại Iphone 7Plus, màu đen và 1.000.000 đồng do H tự nguyện bồi thường theo yêu cầu của ông H2 để khôi phục dữ liệu trong điện thoại. Ông H2 đã nhận lại và không yêu cầu H bồi thường gì khác, nên không xem xét giải quyết.

Bị cáo Trần Mạnh H nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Mạnh H tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra; Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú; Phù hợp với thời gian, địa điểm, lời khai của bị hại, những người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng hơn 19 giờ ngày 12/4/2022, tại nhà số 342 đường Lý Thường Kiệt, khu 6, phường Th, thành phố B, tỉnh B, Trần Mạnh H có hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại Iphone 7Plus, màu đen đã qua sử dụng trị giá 2.700.000 đồng của ông Trần Minh H2 với mục đích để sử dụng.

Như vậy, hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị nêu trên mà bị cáo H thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật hình sự, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân, vì vậy pH2 đưa ra xét xử bị cáo kịp thời và có hình phạt nghiêm nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo H là người có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Sau khi phạm tội đã đến cơ quan Công an thành phố B đầu thú, giao nộp lại tài sản đã trộm cắp, đồng thời tự nguyện bồi thường theo yêu cầu của ông H2 số tiền 1000.000 đồng để khôi phục dữ liệu trong điện thoại. Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bản thân đang là học sinh, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.

Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B là phù hợp với bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, do vậy không cần thiết pH2 cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà chỉ cần cho cải tạo, giáo dục tại địa phương cũng đủ giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện.

[4] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính cần phạt bị cáo một khoản tiền sung công quỹ Nhà nước mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, nhưng xét thấy bị cáo đang là học sinh, không có tài sản riêng. Do đó Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Do bị hại đã nhận lại tài sản, bồi thường thiệt hại về tài sản và không yêu cầu bị cáo pH2 bồi thường gì thêm, nên không đặt ra xem xét giải quyết là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Bị cáo H pH2 chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Trần Mạnh H phạm tội “Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1, Điều 173; điểm b, i, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Trần Mạnh H 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo Trần Mạnh H cho Ủy ban nhân dân phường Th, thành phố B, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp bị cáo được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về án phí: Buộc bị cáo Trần Mạnh H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt, niêm yết bản án hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 184/2022/HS-ST

Số hiệu:184/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về