TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ G, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 183/2022/HS-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 06 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 84/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 05 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 148/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 05 năm 2022, đối với bị cáo:
Võ Thanh Q, sinh ngày 28/02/1986. Tại thành phố G, tỉnh Kiên Giang. Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Số 26, Tổ 23 khu phố C, phường H, thành phố G, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Thanh H và bà Phạm Thị C1; Anh chị em ruột có 04 người: lớn nhất sinh năm 1984, nhỏ nhất sinh năm 2004; Vợ Danh Thị Bé G1, sinh năm 1990; Con có 01 người, sinh năm 2011.
Tiền sự: Không.
Tiền án: Ngày 01/01/2021, bị Tòa án nhân dân thành phố G xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Đến ngày 27/04/2021 đã chấp hành xong, chưa được xóa án tích.
Nhân thân: Ngày 01/9/2004, bị Công an Quận 12, thành phố Hồ Chí Minh lập danh bản về hành vi hủy hại tài sản. Võ Thanh Q khai nhận năm 2004 bị xử phạt 1.000.000 đồng về hành vi hủy hoại tài sản và đã chấp hành xong quyết định xử phạt (không nhớ cơ quan nào xử lý). Tuy nhiên, qua điều tra không xác định được hình thức xử lý đối với Võ Thanh Q về việc xử phạt trên.
Bị cáo được tại ngoại. Bị cáo có mặt tại phiên tòa
- Người bị hại:
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cấp nước G2.
Địa chỉ: Số 206 đường C4, phường T, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.
Người đại diện theo pháp luật: Nguyễn Vũ Hoài P; chức vụ: Chủ tịch.
Người đại diện ủy quyền: Ông Nguyễn Văn N1, sinh năm 1989; Chức vụ: Nhân viên. (Có đơn xin vắng mặt) Địa chỉ: Số 338/8/29 đường K, phường Q, thành phố G, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 10 giờ 40 phút, ngày 23/12/2021, Võ Thanh Q điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM lại Anhel 100, biển kiểm soát 65G1-xxx.41 (xe Q mua của người thanh niên tên Trắng, không rõ nhân thân, xe không có giấy tờ) chở Huỳnh Thanh H1 từ nhà dì của H1 thuộc tổ 11 khu phố 3, phường Vĩnh Thông đi về khu dân cư vượt lũ, khu phố 3, phường Vĩnh Thông. Khi đi đến đường Tạ Uyên thì H1 nói với Q muốn đi vệ sinh nên Q chở H1 vào khu vực hồ chứa nước ngọt của Công ty TNHH MTV cấp nước G2 để đi vệ sinh. Tại đây, cả hai phát hiện bên trong hàng rào của hồ chứa nước có 01 cánh cửa bằng kim loại, ống tròn, được hàn dính vòng ngoài và trong, bên trong được hàn bằng lưới B40 dính lại với nhau bị rỉ sét nhiều chỗ để nằm dưới nền đất, không ai trông coi nên cả hai nảy sinh ý định lấy trộm bán lấy tiền tiêu xài. Lúc này, H1 leo rào vào trong lấy cánh cửa đưa ra khỏi hàng rào lưới B40 ra bên ngoài cho Q. Sau đó, Q điều khiển xe, H1 ngoài phía sau giữ cánh cửa ở giữa để tìm nơi tiêu thụ, đang đi đến đoạn đường Hồ Thị Kỷ, phường Vĩnh Thông thì bị lực lượng Công an bắt quả tang và tại Cơ quan cảnh sát điều tra cả hai thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Đến ngày 17/02/2022 Võ Thanh Q và Huỳnh Thanh H1 bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G khởi tố vụ án và khởi tố bị can để điều tra và lệnh cấm đi khởi nơi cư trú đối với Võ Thanh Q và lệnh bắt tạm giam đối với Huỳnh Thanh H1 nhưng H1 đã bỏ đi khỏi nơi cư trú không biết đi đâu, Cơ quan điều tra Công an thành phố G ra Quyết định truy nã đối với Huỳnh Thanh H1 ngày 13/4/2022 và quyết định tách vụ hành vi trộm cắp tài sản đối với Huỳnh Thanh H1 thành 01 vụ án khác để điều tra.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Võ Thanh Q đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”.
* Vật chứng trong vụ án:
- 01 (Một) cánh cửa bằng kim loại, ống tròn, được hàn kính vòng ngoài và trong, bên trong được hàng bằng lưới B40 dính lại với nhau, kích thước ngang 2m, cao 2m, cân nặng khoảng 40kg, đã bị rỉ sét nhiều chỗ, đã qua sử dụng.
- 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu SYM loại xe Angel, biển kiểm soát 65G1- xxx.41, số máy VMEVA2AD145930, đã qua sử dụng. Qua xác minh là xe của Võ Thị Bảo T, Cơ quan Cảnh sát điều tra không làm việc được với chị T để xác định nguồn gốc xe do chị T đã bỏ địa phương đi đâu không rõ.
* Tại bản kết luận định giá về giá trị tài sản số 03/KL-HĐĐGTS, ngày 10/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố G đã kết luận: 01 (Một) cánh cửa bằng kim loại, ống tròn, được hàn kính vòng ngoài và trong, bên trong được hàng bằng lưới B40 dính lại với nhau, kích thước ngang 2m, cao 2m, cân nặng khoảng 40kg, đã bị rỉ sét nhiều chỗ, đã qua sử dụng tại thời điểm ngày 23/12/2021 có giá trị là 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng).
* Xử lý vật chứng: Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại vật chứng cho bị hại Công ty TNHH MTV cấp nước G2 01 (Một) cánh cửa bằng kim loại, ống tròn, được hàn kính vòng ngoài và trong, bên trong được hàng bằng lưới B40 dính lại với nhau, kích thước ngang 2m, cao 2m, cân nặng khoảng 40kg, đã bị rỉ sét nhiều chỗ, đã qua sử dụng theo Quyết định xử lý tài sản, đồ vật số 20 ngày 26/01/2022.
* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Công ty TNHH MTV cấp nước G2 đã nhận lại đầy đủ tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm.
* Tại bản cáo trạng số: 104/CT-VKSRG, ngày 13 tháng 05 năm 2022, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Võ Thanh Q về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
* Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan điều tra Công an thành phố G và bản cáo trạng truy tố của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G.
* Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G, tỉnh Kiên Giang vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Võ Thanh Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Võ Thanh Q từ 06 (Sáu) tháng đến 09 (Chín) tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:
Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu SYM loại xe Angel, biển kiểm soát 65G1-xxx.41, số máy VMEVA2AD145930, đã qua sử dụng. Qua xác minh là xe của Võ Thị Bảo T, Cơ quan Cảnh sát điều tra không làm việc được với chị T để xác định nguồn gốc xe do chị T đã bỏ địa phương đi đâu không rõ.
Trả cho Công ty TNHH MTV cấp nước G2 01 (Một) cánh cửa bằng kim loại, ống tròn, được hàn kính vòng ngoài và trong, bên trong được hàng bằng lưới B40 dính lại với nhau, kích thước ngang 2m, cao 2m, cân nặng khoảng 40kg, đã bị rỉ sét nhiều chỗ, đã qua sử dụng. (Đã trả xong) Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Công ty TNHH MTV cấp nước G2 nhận lại đầy đủ tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm, đề nghị không xem xét.
* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố G, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo cũng như những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Võ Thanh Q: Vào khoảng 10 giờ 40 phút ngày 23/12/2021, Võ Thanh Q và Huỳnh Thanh H1 đã lén lút vào hồ dự trữ nước ngọt của Công ty TNHH MTV cấp nước G2 lấy trộm 01 (Một) cánh cửa bằng kim loại, ống tròn, được hàn kính vòng ngoài và trong, bên trong được hàng bằng lưới B40 dính lại với nhau, kích thước ngang 2m, cao 2m, cân nặng khoảng 40kg, đã bị rỉ sét nhiều chỗ, đã qua sử dụng, Q và H1 đang đi tìm nơi tiêu thụ thì bị bắt quả tang cùng vật chứng. (Qua định giá tài sản có giá trị là 1.200.000 đồng (Một triệu hai trăm nghìn đồng).
Từ những chứng cứ đã nêu trên, có đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Võ Thanh Q phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự như kết luận của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tính tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xét về hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, mặc dù bị cáo ý thức được việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên bị cáo lợi dụng sự sơ hở của bị hại bất chấp thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác một cách trái pháp luật. Hành vi phạm tội của bị cáo với lỗi cố ý trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến cuộc sống gia đình bị hại, làm mất an ninh, trật tự ở địa phương và gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Qua xem xét, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; bị cáo từng có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản (chưa xóa án tích) nay bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên Hội đồng xét xử thống nhất xử phạt bị cáo mức án tương xứng bằng hình phạt tù có thời hạn, giam giữ bị cáo trong thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt, sống có ích cho xã hội.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đã cho thấy bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế gia đình khó khăn. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Công ty TNHH MTV cấp nước G2 đã nhận lại đầy đủ tài sản và không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm nên không xem xét.
[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu SYM loại xe Angel, biển kiểm soát 65G1-xxx.41, số máy VMEVA2AD145930, đã qua sử dụng. Qua xác minh là xe của Võ Thị Bảo T, Cơ quan Cảnh sát điều tra không làm việc được với chị T để xác định nguồn gốc xe do chị T đã bỏ địa phương đi đâu không rõ.
Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G, tỉnh Kiên Giang đã trao trả vật chứng của vụ án là tài sản của bị hại Công ty TNHH MTV cấp nước G2. Xét thấy việc xử lý vật chứng của Cơ quan điều tra không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, không có ai khiếu nại về việc xử lý vật chứng nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[8] Xét đề nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G đề nghị tại bản luận tội đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
Đối với Huỳnh Thanh H1, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố G đã tách hành vi trộm cắp tài sản của H1 thánh vụ án khác để điều tra theo quy định. Hiện nay H1 đang bị truy nã, khi bắt được sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tuyên bố: Bị cáo Võ Thanh Q phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Võ Thanh Q mức án 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên: Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (Một) xe mô tô nhãn hiệu SYM loại xe Angel, biển kiểm soát 65G1-xxx.41, số máy VMEVA2AD145930, đã qua sử dụng. Qua xác minh là xe của Võ Thị Bảo T, Cơ quan Cảnh sát điều tra không làm việc được với chị T để xác định nguồn gốc xe do chị T đã bỏ địa phương đi đâu không rõ.
(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 63/QĐ-VKS ngày 13/05/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố G) - Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016; buộc bị cáo Võ Thanh Q phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (09/06/2022). Bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 183/2022/HS-ST
Số hiệu: | 183/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Rạch Giá - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về