Bản án về tội trộm cắp tài sản số 18/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK GLEI, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 18/2023/HS-ST NGÀY 26/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 12 năm 2023, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 18/2023/TLST-HS ngày 27/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

A Ng; tên gọi khác: không; sinh ngày 19/5/2002 tại K; nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã Mường Hoong, huyện Đ, tỉnh K; chổ ở hiện nay: Thôn L, xã Mường Hoong, huyện Đ, tỉnh K; nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Xơ Đăng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông A D sinh năm 1972 và bà Y B, sinh năm 1977, cùng trú tại: Thôn L, xã Mường Hoong, huyện Đ, tỉnh K; Vợ: Y Phước, sinh năm: 2005 (chưa đăng ký kết hôn); Con: Y My sinh năm: 2023.

Bị cáo có bốn anh chị em, bị cáo là con thứ tư trong gia đình. Tiền án; tiền sự: Không Bị cáo A Ng đang áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 21/LC- ĐTTH của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ từ ngày 30/10/2023 cho đến nay. (Có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Ông A Th; sinh năm 1990 Trú tại: Thôn L, xã Mường Hoong, huyện Đ, tỉnh K (Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07h00 phút, ngày 01/9/2023, A Ng lên vườn sâm của gia đình tại tiểu khu 86, thuộc thôn Mô Po, xã Mường Hoong, huyện Đ để kiểm tra và chăm sóc sâm. Đến khoảng 16h00 phút cùng ngày, A Ng đi lên vườn sâm của cậu ruột là A Th, sinh ngày: 02/03/1990, trú cùng thôn (là cậu ruột của A Ng) cũng tại tiểu khu 86 thuộc thôn Mô Po, xã Mường Hoong(cách vườn sâm của A Ng 500 mét). Vườn sâm của A Th đóng cửa và được khóa bằng khóa số, do trước đây, A Th thường thuê A Ng chăm sóc vườn sâm nên A Ng biết mật khẩu số là 2023). A Ng mở khóa cổng vào trong vườn kiểm tra, khi kiểm tra tại mái che trồng sâm Ngọc Linh thứ ba tính từ cổng vào, A Ng thấy cây sâm Ngọc Linh mọc đều và tươi tốt, nên nảy sinh lòng tham, A Ngáp dùng tay bới đất, nhổ sâm ở hai luống gần nhau, một luống 03(ba) cây và một luống 02 (hai) cây sâm Ngọc Linh. Sau đó, đi đến cổng đã vào trước đó, khóa cổng lại từ bên trong, rồi trèo qua hàng rào để ra ngoài. A Ng đi theo con đường đã đi trước đó, trong quá trình di chuyển, A Ng bẻ và vứt bỏ phần cuống, lá chỉ giữ lại củ, sau đó vùi giấu 05(năm) củ sâm tại gốc cây cách vườn A Th khoảng 45 mét rồi đi về nhà.

Khoảng 12h00 phút, ngày 03/9/2023, A Th đi lên thăm vườn sâm của gia đình tại tiểu khu 86, thuộc thôn Mô Po, xã Mường Hoong, huyện Đ thì phát hiện bị mất 05(năm) củ sân Ngọc Linh (loại từ 06 đến 09 năm tuổi) nên ngày 11/9/2023, A Th đã làm đơn trình báo vụ việc cho Công an xã Mường Hoong. Do lo sợ hành vi của mình bị phát giác, đồng thời A Ng cảm thấy ăn năn, hối cải về hành vi của mình, nên lên lấy lại 05 (năm) củ sâm Ngọc Linh đã giấu trước đó, rồi đi đến Công an xã Mường Hoong tự thú, tự nguyện giao nộp lại 05 (năm) củ sâm Ngọc Linh và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

- Ngày 15/9/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ ban hành Quyết định trưng cầu giám định số: 34/QĐ- CSĐT, trưng cầu ông Hồ Công Vũ- Giám định viên tư pháp trong lĩnh vực lâm nghiệp, thuộc Chi cục Kiểm lâm tỉnh K giám định chủng loại, số tuổi của 05 (năm) mẫu thực vật do A Ng giao nộp tại Công an xã Mường Hoong vào ngày 13/9/2023.

Đến ngày 21/9/2023, Chi cục Kiểm lâm tỉnh K có bản Kết luận giám định tư pháp số: 15-2023/KL/GĐCN kết luận: 05(năm) mẫu thực vật gửi giám định là sâm Ngọc Linh với tên khoa học Panax vietnamensis Ha et Grushv thuộc họ Ngũ gia bì(Araliaceae) lớp hai lá mầm(Dicotyledoneae), và từ chối giám định tuổi của 05(năm) cây sâm nói trên vì không đủ cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học chắc chắn để xác định.

- Ngày 25/9/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ có công văn Yêu cầu định giá tài sản số: 27/YC- CSĐT, đề nghị Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ định giá thành tiền VNĐ đối với 05(năm) củ sâm Ngọc Linh, thời điểm định giá ngày 01/9/2023.

Ngày 06/10/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đ có Kết luận định giá tài sản số: 09/KL-HĐĐGTS kết luận: 05(năm) củ sâm có tổng giá trị là: 7.466.667 đồng(Bảy triệu bốn trăm sáu mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi bảy đồng);

Cáo trạng số: 16/CT - VKS ngày 27 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo A Ng về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1, Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, r, s, khoản 1, Điều 5, Điều 65 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo A Ng từ 9 tháng đến 12 tháng nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 đến 24 tháng.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số, cư trú ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, không có thu nhập ổn định, do đó đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã thu giữ 05 (năm) củ sâm Ngọc Linh và đã trả lại cho chủ sở hữu là anh A Th, do vậy đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị cáo A Ng đã tự nguyện bồi thường số tiền 7.000.000 (bảy triệu đồng) cho bị hại A Th và bị hại cam kết không khiếu nại, khiếu kiện về sau), do vậy đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo bị kết án phải chịu án phí theo quy định của pháp luật, tuy nhiên bị cáo là người đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lời nó sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bị hại không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa. có đủ cơ sở khẳng định: Vì muốn có tiền tiêu xài cá nhân, nên Khoảng 16h00 phút, ngày 01/09/2023, A Ng lợi dụng không có ai trong coi đã có hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt 05(năm) củ sâm Ngọc Linh của A Th, tại Tiểu khu 86, thuộc thôn Mô Po, xã Mường Hoong, huyện Đ, tỉnh K. Theo Kết luận định giá tài sản số: 09/KL-HĐĐGTS kết luận 05(năm) củ sâm có tổng giá trị là:

7.466.667 đồng(bảy triệu bốn trăm sáu mươi sáu nghìn sáu trăm sáu mươi bảy đồng).

Như vậy, có đủ cơ sở xác định hành vi trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất mức độ hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý, biết rõ hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do chính hành vi của bị cáo gây ra.

[4]. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đặc điểm về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

- Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã bồi thường cho gia đình bị hại số tiền 7.000.000 đồng, bị cáo biết hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật bị cáo đã ra tự thú, trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, r, s, khoản 1, Điều 51 của Bộ luật hình sự cần được áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà tích cực cải tạo.

Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, ổn định, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án như vậy cũng đảm bảo việc giáo dục, cải tạo đối với bị cáo, cũng như phòng ngừa chung.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, do đó Hội đồng xét xử xét thấy không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng của vụ án: Trong quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ đã thu giữ 05 (năm) củ sâm Ngọc Linh do A Ng tự nguyện giao nộp, cụ thể như sau:

Mẫu thứ nhất (đánh số 1) có khối lượng 17,5 gam; Mẫu thứ hai(đánh số 2) có khối lượng 15,3 gam; Mẫu thứ ba (đánh số 3) có khối lượng 14,3 gam; Mẫu thứ tư (đánh số 4) có khối lượng 11,4 gam và Mẫu thứ năm (đánh số 5) có khối lượng 10,9 gam.

Trong quá trình điều tra cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 05 (năm) củ sâm Ngọc Linh cho chủ sở hữu hợp pháp là anh A Th là đúng quy định của pháp luật, do vậy HĐXX không xem xét.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra bị cáo A Ngáp đã tự nguyện bồi thường số tiền 7.000.000 (bảy triệu đồng) cho bị hại A Thiên và bị hại A Thiên không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét. [8]. Về án phí: Tại phiên tòa, bị cáo A Ng có đơn xin được miễn án phí hình sự sơ thẩm. Xét thấy bị cáo có hộ khẩu thường trú và sinh sống tại Thôn L, xã Mường Hoong, huyện Đ, tỉnh K là thôn đặc biệt khó khăn, thuộc diện miễn nộp tiền án phí theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, nên bị cáo được miễn số tiền: 200.000 đồng, án phí HSST.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo A Ng phạm tội “Trộm cắp tài sản” Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểm b, i, r, s, khoản 1, Điều 51; Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo A Ng 9 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 26/12/2023.

Giao bị cáo A Ng cho UBND xã Mường Hoong, huyện Đ, tỉnh K giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Áp dụng khoản 5 Điều 65 BLHS. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 BLHS. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú, làm việc thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 3, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/12/2023). Đối với người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 18/2023/HS-ST

Số hiệu:18/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Glei - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về