TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 179/2023/HS-ST NGÀY 07/12/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 07 tháng 12 năm 2023, tại Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 179/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 176/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Minh T, sinh năm 1991 tại Ninh Thuận Nơi cư trú: Khu phố X, phường V, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa (học vấn): 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị H; Vợ con chưa có.
* Tiền sự: Không.
* Tiền án:
- Ngày 30/7/2015, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 72/2015/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 13/6/2016.
- Ngày 29/11/2018, bị Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 58/2018/HSPT. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/6/2019.
- Ngày 28/8/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 86/2020/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/02/2022.
* Nhân thân:
- Ngày 07/7/2015, bị Công an phường Văn Hải, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt vi phạm hành chính số tiền 200.000 đồng về hành vi Gây rối trật tự.
- Ngày 07/7/2015, bị Công an phường Văn Hải, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt vi phạm hành chính số tiền 200.000 đồng về hành vi Gây rối trật tự.
- Ngày 28/3/2018, bị Ủy ban nhân dân phường Văn Hải, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn do nhiều lần có hành vi trộm cắp tài sản.
Bị cáo bị bắt từ ngày 28/8/2023, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. (có mặt).
Bị hại: Bà Võ Thị Thu H, sinh năm 1972. Nơi cư trú: Khu phố Y, phường B, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (có đơn xin xét xử vắng mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Trần Thị Minh S, sinh năm 1990. Nơi cư trú: Khu phố X, phường V, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 22/3/2023, Trần Minh T điều khiển xe mô tô biển số 85V3 - X chạy ngang tiệm thuốc tây Hùng H thuộc khu phố Y, phường B, thành phố P do bà Võ Thị Thu H (sinh năm 1972 trú tại khu phố Y, phường B, thành phố P) làm chủ; thấy không có người trông coi nên T nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. T dừng xe trước cửa tiệm thuốc rồi đi bộ vào khu vực quầy thuốc, mở ngăn kéo tủ lấy được số tiền 400.000 đồng và 01 đồng hồ nhãn hiệu T700 ProMax, màu vàng – đen đang để sạc pin trên bàn gần cửa ra vào. Sau đó, T đem bán chiếc đồng hồ vừa trộm cắp được cho một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) ở cầu J, thuộc phường L, thành phố P với giá 100.000 đồng. Tất cả số tiền trên, T đã tiêu xài cá nhân.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 51/KL-HĐĐGTS ngày 08/6/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Phan Rang - Tháp Chàm kết luận: 01 đồng hồ hiệu T700 ProMax màu vàng – đen đã qua sử dụng, không thu hồi được. Vào thời điểm ngày 22/3/2023 có giá trị là 350.000 đồng.
Cáo trạng số: 170/CT – VKSPR ngày 23/10/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã khai tại Cơ quan Cảnh sát điều tra và nội dung bản cáo trạng đã truy tố.
Tại Đơn xin xét xử vắng mặt của bị hại Võ Thị Thu H không yêu cầu bồi thường gì về dân sự; Về hình sự: đề nghị xét xử theo quy định pháp luật.
- Đại diện Viện kiểm sát thành phố Phan Rang – Tháp Chàm vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Tuyên bố bị cáo Trần Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”
+ Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Minh T từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù.
+ Xử lý vật chứng: Số tiền 400.000 đồng bị cáo T đã tiêu xài hết nên Cơ quan điều tra không thu hồi được; 01 đồng hồ hiệu T700 Promax màu vàng đen, bị cáo đã bán cho người đàn ông không rõ nhân thân lại lịch ở Cầu J nên Cơ quan điều tra không thu hồi được. Đối với xe mô tô BKS 85V3-X thuộc quyền sở hữu của bà Trần Thị Minh S, bà S không biết T sử dụng xe để đi trộm cắp tài sản nên Cơ quan điều tra trả lại tài sản cho bà S là phù hợp.
+ Đối với người đàn ông mua chiếc đồng hồ mà bị cáo T trộm cắp được, do không xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.
+ Trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét, giải quyết.
Bị cáo không tranh luận.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tung:
[1.1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[1.2] Bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa; không có ai đề nghị hoãn phiên tòa. Căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự; Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[2] Về nội dung vụ án:
[2.1] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 22/03/2023 tại tiệm thuốc tây của bà Võ Thị Thu H thuộc khu phố Y, phường B, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận; Trần Minh T đã thực hiện hành vi trộm cắp số tiền 400.000 đồng và 01 đồng hồ nhãn hiệu T700 ProMax màu vàng – đen của bà H trị giá 350.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 750.000 đồng.
Trần Minh T đã có tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nay lại thực hiện hành vi phạm tội nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm truy tố bị cáo Trần Minh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2.2] Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng do mục đích tư lợi nên vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương.
[2.3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; cha của bị cáo là ông Trần Văn M được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương chiến công hạng 3 nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[2.4] Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu, nhiều lần bị Tòa án xét xử về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không ăn năn hối cải, rèn luyện bản thân để trở thành công dân tốt nay lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên cần có mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[3] Về xử lý vật chứng:
- Đối với số tiền 400.000 đồng, Trần Minh T đã tiêu xài hết nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.
- Đối với 01 đồng hồ nhãn hiệu T700 ProMax màu vàng – đen, Trần Minh T đã bán cho một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) ở Cầu J nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.
- Đối với 01 xe mô tô biển số 85V3-X; Quá trình điều tra xác định chiếc xe thuộc quyền sở hữu của bà Trần Thị Minh S, sinh năm 1990, trú tại khu phố X, phường V, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận (là chị ruột của T); bà S không biết T sử dụng xe làm phương tiện đi trộm cắp nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã trả lại cho bà Sang là phù hợp.
[4] Đối với người đàn ông ở Cầu J đã mua chiếc đồng hồ nhãn hiệu T700 ProMax màu vàng – đen mà Trần Minh T trộm cắp được; Quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Võ Thị Thu H không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.
[6] Về án phí: Bị cáo Trần Minh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Minh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Minh T 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28/8/2023.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Bị cáo Trần Minh T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 07/12/2023). Bị hại vắng mặt, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án sơ thẩm được tống đạt hợp lệ. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 179/2023/HS-ST
Số hiệu: | 179/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về