Bản án về tội trộm cắp tài sản số 178/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 178/2022/HS-ST NGÀY 27/06/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 169/2022/TLST-HS ngày 26 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 191/2022/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1985 tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Xóm 2A, xã LT, huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1958 và bà Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1965 (chết); bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: 02 - Ngày 24/7/2019 bị Tòa án nhân dân quận (nay là thành phố) Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án số 197/2019/HSST ngày 24/9/2019, chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/02/2020.

- Ngày 30/9/2020 bị Tòa án nhân dân huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình xử phạt 15 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo Bản án số 58/2020/HSST ngày 30/9/2020, chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/8/2021.

Tiền sự: Không. Nhân thân:

- Ngày 30/5/2002 bị Ủy ban nhân dân tỉnh Ninh Bình ra quyết định số 896/QĐ- UBND ngày 30/5/2002 đưa vào trường giáo dưỡng số 2 thời hạn 12 tháng. Chấp hành xong quyết định ngày 31/3/2003.

- Ngày 26/10/2006 bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội cướp tài sản theo Bản án số 186/2006/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 17/01/2009.

- Ngày 19/11/2009 bị Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo Bản án số 32/2009/HSST. Đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/02/2014.

- Ngày 06/6/2016 bị Công an huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 76/CAKS về hành vi đánh bạc, số tiền 2.000.000 đồng.

- Ngày 12/9/2014, bị Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội xử phạt 25 tháng tù về tội trộm cắp tài sản theo bản án số 332/2014/HSST. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/5/2016.

- Ngày 04/7/2018 bị Công an huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trộm cắp tài sản số tiền 1.500.000 đồng.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/11/2021, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Lê Thị Mỹ T, sinh năm 1998; nơi cư trú: Ấp Tân Mỹ, xã Mỹ Thuận, huyện Hòn Đất, tỉnh Kiên Giang, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Văn H, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị Th, sinh năm 1961; cùng trú tại: 35 đường số 4, khu phố 2, phường Hiệp Bình Chánh, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Trương Văn A và Ông Lê Phi L, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 10 phút ngày 30/11/2021, Nguyễn Văn T điều khiển xe mô tô biển số 54X9-8543 lưu thông trên đường Thuận Giao 22 thuộc khu phố Hòa Lân 2, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương để đi đến nhà bạn của T tại khu công nghiệp Nam Tân Uyên, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Khi đi ngang qua kiốt bán dừa tại địa chỉ 1/76 khu phố Hòa Lân 2, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương của bà Lê Thị Mỹ T thì T dừng lại để mua dừa. Trong lúc T đi vào bên trong căn kiốt để lựa dừa thì thấy 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10+ có gắn ốp lưng màu đỏ của bà T đang để trên ghế nhựa để trong căn kiot và không người trông coi nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định trên, Tú nhanh chóng đi đến vị trí ghế nhựa rồi lấy chiếc điện thoại cho vào trong túi quần phía sau bên phải của T đang mặc. Lúc này, ông Trương Văn A là chồng của bà T vừa đi giao dừa cho khách về đến tiệm thì nhìn thấy Tú đang đứng bên trong kiốt, ông A phát hiện túi quần phía sau bên phải của T có một phần của chiếc điện thoại di động nên khi ngờ Tú đã lấy trộm điện thoại của bà Tiên. Ông A dùng điện thoại của mình gọi vào số máy của bà T để kiểm tra thì lúc này chiếc điện thoại T vừa chiếm đoạt được rung và đổ chuông, T sợ bị phát hiện nên nhanh chóng lấy chiếc điện thoại từ trong túi quần ra và ném xuống bãi dừa bên trong căn kiốt rồi nhanh chóng bỏ chạy ra phía ngoài để điều khiển xe mô tô tẩu thoát thì bị ông A và ông Lê Phi L đuổi theo để giữ lại sau đó trình báo Công an phường Thuận Giao tiếp nhận, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và xử lý theo thẩm quyền.

Tang vật thu giữ gồm: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10+ và 01 xe mô tô biển số 54X9-8543.

Tại Bản kết luận định giá tài sản ngày 02/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Thuận An kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10+ trị giá 5.200.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 164/CT-VKS-TA ngày 25/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn Tú về tội trộm cắp tài sản theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên trình bày lời luận tội trong đó có nội dung giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự tuyên phạt bị cáo từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10+, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bị hại Lê Thị Mỹ T nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại tài sản cho bà T.

- 01 xe mô tô biển số 54X9-8543 nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Wave RSX màu xanh – đen là phương tiện mà bị cáo sử dụng tại thời điểm thực hiện tội phạm. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên do ông Bùi Văn H đứng tên trên giấy đăng ký mô tô xe máy. Ông H khai nhận vào khoảng 13 giờ 00 ngày 30/11/2021, vợ ông là bà Phạm Thị Th tin tưởng Tú là bạn của con trai tên Bùi Tuấn C nên cho T mượn xe để đi việc riêng. Ông H, bà Th không biết việc Tú sử dụng xe vào việc phạm tội. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại chiếc xe trên cho ông H.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi như Cáo trạng truy tố. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên và tại lời nói sau cùng, bị cáo hứa không tái phạm và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng khác không khiếu nại, tố cáo về các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về tội danh: Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và vật chứng thu giữ trong vụ án nên có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 16 giờ 10 phút ngày 30/11/2021, tại kiốt bán dừa địa chỉ 1/76 khu phố HL 2, phường Thuận Giao, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương bị cáo Nguyễn Văn T đã lén lút thực hiện hành vi chiếm đoạt 01 điện thoại Samsung Galaxy S10+ trị giá 5.200.000 đồng của bị hại Nguyễn Thị Mỹ T. Bị cáo bị kết án chưa được xóa án tích mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý đã đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do đó, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An truy tố bị cáo về tội và khung hình phạt như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác một cách trái pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật và sẽ bị trừng trị nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi muốn có tài sản sử dụng không phải bằng sức lao động của mình nên đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp hậu quả và pháp luật. Bản thân bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính, bị kết án về hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác nhưng không lấy đó làm bài học để sửa đổi bản thân trở thành người lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội mà tiếp tục phạm tội thể hiện thái độ coi thường quy định pháp luật. Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhằm cải tạo, giáo dục riêng cho bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây ra thiệt hại theo quy định tại các điểm s, h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Từ những nhận định nêu trên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An đề nghị áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp nên chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy S10+, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của bị hại Lê Thị Mỹ T nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thuận An đã trả lại tài sản cho bà T là có căn cứ. Bị hại không yêu cầu gì khác nên không xem xét.

- 01 xe mô tô biển số 54X9-8543 nhãn hiệu Honda, kiểu dáng Wave RSX màu xanh – đen là tài sản hợp pháp của ông Bùi Văn H. Ngày 30/11/2021, vợ ông là bà Phạm Thị Th cho T và không biết việc Tú sử dụng xe vào việc phạm tội. Do đó, Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho ông H là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm g khoản 2 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;

- Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội Trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 03 (ba) năm tù, Thời hạn tù tính từ ngày 30/11/2021.

2. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 178/2022/HS-ST

Số hiệu:178/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về