Bản án về tội trộm cắp tài sản số 177/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PH CN THƠ

BẢN ÁN 177/2023/HS-ST NGÀY 29/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 85/2023/TLST-HS ngày 18 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 546/2023/QĐXXST-HS ngày 14/9/2023 đối với các bị cáo:

1. TRẦN THANH Đ, Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 12 tháng 5 năm 2006; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi ĐKTT: ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng; Chỗ ở hiện nay: 4 P, khu vực Y, phường L, quận C, thành phố Cần Thơ. Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Ngô Thanh T; (sinh năm 1986) và bà: Trần Thị Mộng T1; (sinh năm 1987); Em ruột có 01 người, sinh năm 2007; Tiền án, Tiền sự: Chưa; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. TÔ CHÂU BẢO P; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 04 tháng 10 năm 2006; Nơi sinh: Cần Thơ; Nơi ĐKTT: A N, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ; Chổ ở: B C, phường B, quận B, thành phố Cần Thơ; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Tô Châu S; (sinh năm 1988) và bà Nguyễn Ngọc S1; (sinh năm 1978); A, chị em ruột: Không; Tiền án, Tiền sự: Chưa; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa:

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh Đ: Bà Nguyễn Thị D - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C. (Có mặt)

* Người giám hộ cho bị cáo Nguyễn Thanh Đ:

- Bà Trần Thị Mộng T1, sinh năm 1987; (Có mặt) Địa chỉ: Số H T, phường A, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ.

* Người giám hộ cho bị cáo Tô Châu Bảo P:

- Bà Nguyễn Ngọc S1, sinh năm 1989. (Có mặt) Địa chỉ: Số B Cách mạng tháng T, phường B, quận B, thành phố Cần Thơ.

- Người bào chữa cho bị cáo Tô Châu Bảo P: Bà Nguyễn Thị Chúc L - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố C.

* Bị hại: Võ Ngọc T2, sinh năm 2002. (Có yêu cầu xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Số D đường C, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ ngày 26/12/2022, Trần Thanh Đ1 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Sirius biển số 64HA-X chở Tô Châu Bảo P về nhà ở quận B, thành phố Cần Thơ. Khi đi trên đoạn đường từ vòng xoay đường C tháng B, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ đến gần cầu Đ, ĐI nhìn thấy có 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Vario 150, màu bạc, biển số 94E 1-X của chị Võ Ngọc T2 đang nằm ngã nghiên dưới lề đường, Đ1 quan sát không thấy ai trông coi, nên nảy sinh ý định lấy trộm xe mô tô của chị T2, Đ1 kêu P điều khiển xe mô tô chở Đ1 đến chỗ xe mô tô trên, P đồng ý, sau đó Đ1 kêu P đi bộ đến xe mô tô biển số 94E 1-X, P quan sát không thấy ai nên P dùng tay dựng xe mô tô lên, nhưng không thấy chìa khóa xe, nên Đ1 điều khiển xe mô tô biển số 64HA-X của Đ1 đến dùng chân đẩy xe mô tô biển số 94E1-X cho P điều khiển xe mô tô về nhà Đ1 để cất giấu ở địa chỉ 4 P, khu vực Y, phường L, quận C, thành phố Cần Thơ. Sau đó Đ1 và P bàn bạc đăng xe mô tô vừa lấy trộm được lên mạng xã hội Facebook để chủ sở hữu liên hệ chuộc lại xe để Đ1 và P lấy tiền uống cà phê, Đ1 thấy xe vừa trộm được có giá trị, nên Đ1 giữ làm phương tiện đi lại. Ngày 27/12/2022, Đ1 đăng bán xe Sirius biển số 64HA-X của Đ1 lên mạng xã hội facebook và bán được cho người đàn ông ở Vĩnh Long (không rõ họ, tên địa chỉ cụ thể) với giá 2.300.000 đồng, sau đó Đ1 kêu thợ làm lại ổ khóa xe với giá 1.3000.000 đồng và tháo biển số 94E1-X cất giấu vào cốp xe. Đến ngày 03/01/2023 Đ1 điều khiển xe mô tô trên đến gặp P thì bị Lực lượng Công an phát hiện mời về trụ sở làm việc. (Bút lục 91-101-110-114a).

Tang vật thu giữ gồm: 01 xe mô tô xe mô tô nhãn hiệu Honda Vario 150, màu bạc số khung 4127LK028377, số máy KE41E2032473 đã qua sử dụng và 01 biển số 94E1 - X. (Bút lục 42-43-45) Tại Kết luận định giá tài sản số 2395/KL-HĐĐG ngày 09/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận N kết luận 01 xe mô tô xe mô tô nhãn hiệu Honda Vario 150, màu bạc, biển số 94E1-X, số khung 4127LK028377, số máy KF41E2032473, đăng ký lần đầu ngày 01/12/2022, chất lượng còn 70%, với giá 37.000.000 đồng. (Bút lục 40-41).

Tại Cơ quan điều tra Trần Thanh Đ1 và Tô Châu Bảo P khai nhận toàn bộ hành vi lén lút lấy trộm 01 xe mô tô xe mô tô nhãn hiệu Honda Vario 150, màu bạc, biển số 94E1-X phù hợp với tài liệu, chứng cứ thu thập được.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Sirius biển số 64HA-X của Đ1 là công cụ. phương tiện Đ1 sử dụng vào mục đích phạm tội, do bị cáo khai nhận đã bán cho một người đàn ông ở Vĩnh Long (không rõ họ, tên địa chỉ cụ thể) nên Cơ quan điều tra nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận N tiếp tục xác minh, xử lý sau.

Về xử lý vật chứng Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô xe mô tô nhãn hiệu Honda Vario 150, màu bạc, số khung 4127LK028377, số máy KF41E2032473 đã qua sử dụng và 01 biển số 94E1-X cho Võ Ngọc T2.

Về trách nhiệm dân sự trong vụ án, chị Võ Ngọc T2 yêu cầu các bị cáo bồi thường giá trị ổ khoá xe bị hư hỏng và 01 bộ điều khiển có giá 10.590.000 đồng và yêu cầu xử lý các bị cáo theo quy định pháp luật.

Tại cáo trạng số: 110/CT-VKSNK ngày 16/5/2021 Viện kiềm sát nhân dân quận Ninh Kiều đã truy tố bị cáo Nguyễn Thanh Đ và Tô Châu Bảo P về tội Trộm cắp tài sản, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo. Các bị cáo đã được người bị hại Võ Ngọc T2 có đơn xin giảm nhẹ hình phạt do đã thực hiện việc khắc phục hậu quả, mặt khác bị cáo Trần Thanh Đ1 là người dân tộc Khmer. Đồng thời phân tích tính chất, mức độ, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 và Điều 90 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh Đ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, cho hưởng án treo;

- Xử phạt bị cáo Tô Châu Bảo P 09 tháng tù, cho hưởng án treo;

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý:

+ Ghi nhận Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô xe mô tô nhãn hiệu Honda Vario 150, màu bạc, số khung 4127LK028377, số máy KF41E2032473 đã qua sử dụng và 01 biển số 94E1-X cho Võ Ngọc T2.

- Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đã bồi thường cho bị hại 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), phía bị hại không có yêu cầu khác.

Người bào chữa cho bị cáo Đ trình bày: Thống nhất với nội dung về tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét phân tích thêm cho bị cáo Đ, bị cáo Đ là người dân tộc khmer, bị hại đã xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, đề nghị áp dụng mức khởi điểm hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị.

Người bào chữa cho bị cáo P trình bày: Thống nhất với nội dung về tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo, tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét vài trò của bị cáo P và không có lợi ích trong vụ án, gia đình bị cáo khó khăn và thiếu tình thương của cha. Phía bị hại có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do đó đề nghị áp dụng mức khởi điểm hình phạt của Viện kiểm sát yêu cầu.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, các bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt trong lời nói sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, thành phố Cần Thơ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các chứng cứ khác đã thu thập hợp pháp trong quá trình điều tra vụ án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: bị cáo Đ và bị cáo P vào ngày 26/12/2022 lợi dụng sự sơ hở, mất cảnh giác của chủ sở hữu có hành vi lén lút lấy trộm tài sản của chị Võ Ngọc T2 đề tiêu xài theo Kết luận định giá là 37.000.000 đồng. Do đó, với hành vi đã thực hiện các bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cáo trạng truy tố các bị cáo là có căn cứ.

Bị cáo Đ và bị cáo P phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tuy nhiên hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự tại địa phương. Hành vi của các bị cáo cần thiết phải xử lý bằng pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội.

Bị cáo Đ và bị cáo P cố ý lấy trộm tài sản nên xem là đồng phạm. Tuy nhiên giữa hai bị cáo không có sự cấu kết chặt chẽ nên thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn.

Về nhân thân: Các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, nhưng chỉ vì ham chơi, đua đòi muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà không ra sức lao động dẫn đến con đường phạm tội.

[3] Xét các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi và bồi thường một phần thiệt hại cho người bị hại nên cho bị cáo P và Đ hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.

Ngoài ra bị cáo Đ và bị cáo P phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên cần áp dụng Điều 91 về nguyên tắc xét xử đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015 đề áp dụng hình phạt đối với bị cáo.

[4] Khi lượng hình Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo tuổi đời còn trẻ, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội khi chưa thành niên nên không cần thiết xử phạt tù giam mà giao bị cáo về địa phương nơi bị cáo cư trú cùng gia đình giám sát, quản lý giáo dục bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe đối với bị cáo và phòng ngừa chung, đề các bị cáo có điều kiện học tập, tu dưỡng, thay đổi nhận thức sống để trở thành người có ích cho xã hội sau này, qua hình phạt cũng để răn đe, trấn áp những tội phạm tương tự. Vì vậy, mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp.

[5] Về xử lý vật chứng: Ghi nhận Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 xe mô tô xe mô tô nhãn hiệu Honda Vario 150, màu bạc, số khung 4127LK028377, số máy KF41E2032473 đã qua sử dụng và 01 biển số 94E1-X cho Võ Ngọc T2.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận việc các bị cáo đã bồi thường cho bị hại tổng số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) trong đó gồm 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) theo biên lai số 0001901 ngày 16/6/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Ninh Kiều và Biên nhận tiền ngày 06/7/2023 giữa bị hại với bị cáo với số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng). Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[7] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thanh Đ và Tô Châu Bảo P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, Điều 17, Điều 65, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thanh Đ 01 năm (Một năm) 06 tháng (Sáu tháng) tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng (Ba mươi sáu tháng) tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thanh Đ cho Ủy ban nhân dân phường L, quận C, thành phố Cần Thơ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường L, quận C quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo Điều 69 Luật thi hành án hình sự Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, Điều 17, Điều 65, điểm b, i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 91, khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Tô Châu Bảo P 09 tháng (Chín tháng) tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng (Mười tám tháng), tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Tô Châu Bảo P cho Ủy ban nhân dân phường B, quận B, thành phố Cần Thơ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường B, quận B quản lý, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo Điều 69 Luật thi hành án hình sự Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[2] Về xử lý vật chứng: Ghi nhận Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 01 (Một) xe mô tô xe mô tô nhăn hiệu Honda Vario 150, màu bạc, số khung 4127LK028377, số máy KF41E2032473 đã qua sử dụng và 01 (Một) biển số 94E1- 4Ố0.31 cho Võ Ngọc T2.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Các bị cáo đã bồi thường cho bị hại tổng số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) trong đó gồm 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) theo biên lai số 0001901 ngày 16/6/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Ninh Kiều và Biên nhận tiền ngày 06/7/2023 giữa bị hại với bị cáo với số tiền 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng), bị hại được quyền liên hệ Chi cục Thi hành án Dân sự quận Ninh Kiều nhận 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) bị cáo đã nộp theo biên lai số 0001901 ngày 16/6/2023. Bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[4] Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày (Mười lăm ngày) kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày (Mười lăm ngày) kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 177/2023/HS-ST

Số hiệu:177/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về