Bản án về tội trộm cắp tài sản số 177/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BN

BẢN ÁN 177/2021/HS-ST NGÀY 30/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Phong mở phiên toà xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 179/2021/HSST, ngày 01/12/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 158/2021/QĐXXST-HS, ngày 15/12/2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị T, sinh năm 2001.

Trú tại: Thôn Hồng Gạo, xã Yên Bình, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn; trình độ văn hoá: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Hứa Thị D, sinh năm 1977; gia đình có 03 chị em, bị cáo là thứ hai; chưa có chồng.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/11/2021 đến nay (có mặt tại phiên tòa). Người bị hại:

1. Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1986.

Quê quán: Thôn 6, xã Hợp Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.

Hiện trú tại: Trần Xá, Yên Trung, Yên Phong, Bắc Ninh (vắng mặt).

2. Chị Trần Thị N1, sinh năm 1994.

Quê quán: Xóm 9, xã Xuân Tường, huyện Thanh CH1, tỉnh Nghệ An. Hiện trú tại: Trần Xá, Yên Trung, Yên Phong, Bắc Ninh (vắng mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Hoàng Văn Hưng, sinh năm 1985.

Quê quán: Mai Thượng, Mai Đình, Hiệp Hoà, Bắc Giang.

Hiện trú tại: Yên Lãng, Yên Trung, Yên Phong, Bắc Ninh (xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Nguyễn Thị T là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định hiện thuê trọ tại thôn Ấp Đồn, xã Yên Trung, huyện Yên Phong. Khoảng 18 giờ ngày 13/10/2021, T đi bộ từ phòng trọ đến quán bánh mỳ của chị Nguyễn Thị H1 để mua bánh mì. Sau khi mua bánh mì thì T ngồi tại quán ăn và nói chuyện với cháu Lê Thị Kim Ngân, sinh năm 2006 (là con gái của chị H1). Lúc này, chị H1 có để chiếc điện thoại hiệu Iphone Xsmax màu vàng gold, bộ nhớ 64G tại cánh cổng sắt bên cạnh chỗ chị H1 đứng bán bánh mỳ để nghe nhạc. Sau đó, chị H1 có việc đi về khu nhà trọ của chị H1 cách quán bánh mì khoảng 20 mét. Lúc này T nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại của chị H1 để bán lấy tiền ăn tiêu. Lợi dụng lúc cháu Ngân không để ý, T đi đến chỗ để chiếc điện thoại rồi cầm chiếc điện thoại của chị H1 đi thẳng về phòng trọ. Do trước đó T đã có lần mượn chiếc điện thoại này của chị H1 để nghe nhạc và biết mật khẩu nên T đã mở được mật khẩu màn hình điện thoại. Sau đó, T tháo sim điện thoại ra và vứt đi (vứt ở đâu T không nhớ). Khoảng 2-3 ngày sau, T mang chiếc điện trộm cắp được đến cửa hàng điện thoại Busan Mobile ở thôn Yên Lãng, xã Yên Trung của anh Hoàng Văn Hưng. T bán điện thoại cho anh Hưng với giá 7.600.000đ, khi bán T không nói cho anh Hưng biết đây là Tài sản do T trộm cắp mà có. T có mua của anh Hưng 01 chiếc điện thoại Iphone 6s plus với giá 3.600.000đ, anh Hưng trả cho T 4.000.000đ. Số tiền này T đã ăn tiêu hết.

Ngày 03/11/2021, chị Nguyễn Thị H1 đã làm đơn trình báo Công an huyện Yên Phong.

Cùng ngày, nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật, Nguyễn Thị T đã đến Công an huyện Yên Phong đầu thú và khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Ngày 04/11/2021, anh Hoàng Văn Hưng đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra Công an huyện Yên Phong chiếc điện thoại đã mua của T.

Tại Kết luận định giá Tài sản số: 84/KL-HĐĐGTS ngày 09/11/2021 của Hội đồng định giá Tài sản đã kết luận: Chiếc điện thoại Iphone Xsmax màu vàng gold bộ nhớ 64G trị giá 11.500.000đ.

Tại Cơ quan điều tra, qua đấu tranh, T đã tự thú và khai nhận hành vi trộm cắp ngày 21/9/2021 tại thôn Trần Xá, xã Yên Trung, huyện Yên Phong như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 21/9/2021, T đi bộ từ phòng trọ đến cửa hàng quần áo “Thanh N1” ở thôn Trần Xá, xã Yên Trung của chị Trần Thị N1 để mua quần áo. Khi chọn quần áo xong, T mang ra quầy để thanh toán. T nói với chị N1 là điện thoại bị hỏng nên không chuyển khoản được và không mang theo tiền mặt, T phải đợi bạn mang tiền đến. Thấy T nói vậy thì chị N1 quay vào trong cửa hàng để treo quần áo lên giá. Chị N1 có để một chiếc túi xách màu trắng kích thước 15x20cm, mặt túi đính đá màu trắng, không có nhãn hiệu vào trong chiếc túi nilon màu trắng rồi để lên chiếc bàn gỗ, kê sát tường góc phía bên trong quán, bên trong ví có số tiền khoảng 4.000.000đ và một số giấy tờ tùy thân. Quan sát thấy chị N1 không để ý, T đã thò tay vào bên trong chiếc túi nilon màu trắng lấy chiếc túi màu trắng có đính đá của chị N1 rồi đi về phòng trọ. Trên đường đi, T đã mở túi lấy số tiền khoảng 4.000.000đ trong ví rồi vứt chiếc ví đi (cụ thể vứt ở đâu T không nhớ). Khoảng hơn 21 giờ cùng ngày, chị N1 được một người nhặt được chiếc túi đưa lại cho chị N1. Chị N1 kiểm tra bên trong thì thấy số tiền mặt đã bị mất, chỉ còn lại giấy tờ tùy thân.

Sau khi sự việc xảy ra, chị N1 chưa làm đơn trình báo. Ngày 04/11/2021, khi Công an tiến hành xác minh, chị N1 đã làm đơn trình báo Công an huyện Yên Phong.

Bản cáo trạng số: 177/CT-VKSYP, ngày 30/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong truy tố Nguyễn Thị T về tội “trộm cắp Tài sản”, theo khoản 1, điều 173 của Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong giữ quyền công tố trước phiên toà sau khi phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân bị cáo, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố Nguyễn Thị T về tội “trộm cắp Tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1, điều 173; điều 38; điểm r, s, khoản 1, 2 điều 51; điểm g, khoản 1, điều 52; điều 48 Bộ luật hình sự; điều 584; điều 585; điều 586 và điều 589 Bộ luật dân sự xử phạt T từ 10 đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2021.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo T phải bồi thường cho chị Trần Thị N1 số tiền 4.000.000đ; bồi thường cho anh Hoàng Văn Hưng số tiền 7.600.000đ.

Bị cáo nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an huyện Yên Phong, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong, đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng đã thu hồi được và các chứng cứ, T liệu có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận:

Trong thời gian từ tháng 9/2021 đến tháng 10/2021, Nguyễn Thị T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp Tài sản, cụ thể:

Vụ thứ nhất: Khoảng 17 giờ ngày 21/9/2021, tại cửa hàng quần áo “Thanh N1” ở thôn Trần Xá, xã Yên Trung, huyện Yên Phong. Nguyễn Thị T đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu, đã có hành vi lén lút, bí mật trộm cắp 01 chiếc túi xách màu trắng, bên trong có số tiền 4.000.000đ của chị Trần Thị N1.

Vụ thứ hai: Khoảng 18 giờ ngày 13/10/2021, tại quán bánh mì của chị Nguyễn Thị H1 ở thôn Trần Xá, xã Yên Trung, huyện Yên Phong. Nguyễn Thị T đã hành vi lén lút, bí mật trộm cắp 01 chiếc điện thoại hiệu Iphone Xsmax màu vàng gold trị giá 11.500.000đ của chị H1 đem bán lấy tiền ăn tiêu. Tổng trị giá Tài sản là 15.500.000đ. Hành vi của Nguyễn Thị T đã phạm tội “trộm cắp Tài sản”, phạm vào khoản 1, điều 173 Bộ luật hình sự như Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã truy tố là đúng người, đúng tội.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, rất táo bạo và liều lĩnh, đã gây mất trật tự trị an trên địa bàn huyện Yên Phong, xâm phạm đến quyền sở hữu về Tài sản của người khác, dư luận xã hội đòi hỏi phải xử lý nghiêm. Trong một thời gian ngắn bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi phạm tội, bởi vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm g, khoản 1, điều 52 Bộ luật hình sự. Bởi vậy, cần phải có một hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

Xét thấy, sau khi phạm tội đã đến Công an đầu thú và tự khai thêm hành vi trộm cắp Tài sản của chị Trần Thị N1; tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm r, s, khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy, cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần khi quyết định hình phạt.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Cơ quan điều tra đã trả lại cho chiếc điện thoại Iphone Xsmax màu vàng gold cho chị Nguyễn Thị H1, do vậy không xem xét.

Đối với số tiền 4.000.000đ bị cáo đã trộm cắp của chị N1, nay chị N1 yêu cầu bị cáo phải bồi thường, cần buộc bị cáo phải bồi thường cho chị N1 số tiền 4.000.000đ.

Anh Hoàng Văn Hưng yêu cầu bị cáo phải trả cho anh số tiền 7.600.000đ anh đã bỏ ra mua chiếc điện thoại, cần buộc bị cáo phải trả cho anh Hưng 7.600.000đ.

Đối với anh Hoàng Văn Hưng là người mua chiếc điện thoại Iphone Xsmax màu vàng gold do T trộm cắp. Tuy nhiên anh Hưng không biết đó là Tài sản do phạm tội mà có. Vì vậy, Cơ quan điều tra không xử lý đối với anh Hưng là phù hợp.

Ngoài ra T còn khai nhận ngày 09/10/2021 đã trộm cắp 01 chiếc ví màu nâu, bên trong chiếc ví có 1.700.000đ, thẻ ATM và giấy tờ tùy thân tại cửa hàng quần áo “Têry Boutique” của chị Giáp Thị Trang, sinh năm 1995 ở thôn Trần Xá, xã Yên Trung, huyện Yên Phong. Sau khi trộm cắp, T đã lấy tiền và vứt ví cùng giấy tờ nhưng không nhớ đã vứt ở đâu. Xét thấy hành vi trên không cấu thành tội phạm nên Công an huyện Yên Phong đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T về hành vi “Trộm cắp Tài sản”, hình thức phạt tiền 1.500.000đ là phù hợp. Chị Trang cũng không yêu cầu T phải bồi thường gì về mặt dân sự, do vậy không xem xét.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “trộm cắp Tài sản”.

Áp dụng khoản 1, điều 173; điều 38; điểm r, s, khoản 1, 2 điều 51; điểm g, khoản 1, điều 52; điều 48 Bộ luật hình sự; điều 589 Bộ luật dân sự; khoản 1, 3 điều 329; điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí Toà án:

Xử phạt: Nguyễn Thị T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/11/2021. Tạm giam bị cáo 45 ngày, kể từ ngày 30/12/2021 để đảm bảo thi hành án.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị T phải bồi thường cho chị Trần Thị N1 số tiền 4.000.000đ; bồi thường cho anh Hoàng Văn Hưng số tiền 7.600.000đ.

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, hàng tháng bị cáo còn phải chịu khoản tiền lãi theo mức lãi suất do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với số tiền chưa thi hành án theo quy định tại điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2, Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30, Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 580.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi ngĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

299
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 177/2021/HS-ST

Số hiệu:177/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về