TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH BÌNH THUẬN
BẢN ÁN 177/2021/HS-ST NGÀY 01/12/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 01 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận, Tòa án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 186/2021/HSST ngày 05 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:
PHẠM QUỐC D, Sinh năm: 1994 tại tỉnh Bình Thuận.
Nơi ĐKTT: khu phố 7, phường Đ, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở: khu phố 1, phường L, thành phố P, tỉnh Bình Thuận; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H (đã chết) và bà Đường Thị Tuyết N. Chưa có vợ, con.
Tiền án: Ngày 19/01/2017, bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Thuận xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 03/2017/HSST), chấp hành xong thử thách ngày 19/01/2018, đã đóng án phí vào ngày 25/8/2017, chưa được xóa án tích do ngày 07/01/2019 và ngày 08/01/2019 bị cáo tiếp tục phạm tội “Trộm cắp tài sản” bị Tòa án nhân dân thành phố P xử phạt 12 tháng tù tại bản án số 77/2019/HSST ngày 09/7/2019.
Tiền sự: không;
Nhân thân: Ngày 09/7/2019, bị Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (theo bản án số 77/2019/HSST), chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/5/2020.
Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” . Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Bị hại:
Đường Ân T, sinh năm 1976. Trú tại: khu phố 1, phường L, thành phố P, tỉnh Bình Thuận (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 07 giờ, ngày 03/3/2019, Phạm Quốc D (sinh năm 1994, trú tại: khu phố 1, phường L, thành phố P, tỉnh Bình Thuận) đến nhà cậu ruột mình là Đường Ân T (sinh năm 1976, trú tại: Số 11 đường Thái Phiên, khu phố 1, phường L, thành phố P) thì thấy xe mô tô hiệu Yamaha Jupiter, màu trắng đen, biển số 86H1- 0728 của ông T để trước cửa nhà không có người trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp để bán lấy tiền tiêu xài. Do hay đến nhà ông T chơi nên bị cáo D biết ông T thường để chìa khóa và giấy tờ xe mô tô trên gác. Bị cáo lên gác tìm lấy chìa khóa xe, giấy chứng nhận đăng ký xe rồi đi xuống điều khiển xe mô tô biển số 86H1- 0728 đến nhà bà Trần Thị H (sinh năm 1969, trú tại: khu phố 8, phường Đ, thành phố P) để cầm thế xe cho bà H . Bà H hỏi bị cáo D xe của ai thì bị cáo nói là của bị cáo mua xe cũ chưa làm giấy tờ sang tên, đồng thời đưa giấy tờ xe cho bà H xem. Do có giấy tờ xe đầy đủ nên bà H đồng ý cầm thế với số tiền 2.500.000 đồng. Sau khi chơi game bắn cá hết tiền, ngày 05/3/2019 D quay lại bán xe mô tô biển số 86H1- 0728 cho bà H với giá 4.000.000 đồng thì bà H đồng ý mua, nên bà H đưa thêm cho bị cáo D 1.500.000 đồng, bị cáo đưa cho bà H giấy chứng nhận đăng ký xe và giấy chứng minh nhân dân của bị cáo. Đến ngày 08/3/2019, bà H bán lại xe mô tô biển số 86H1- 0728 cho ông Dương Ngọc T (sinh năm 1977, tạm trú tại khu phố 6, phường Đ, thành phố P) với giá 7.500.000 đồng.
Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ông Đường Ân T đã nhờ cháu mình là Phạm Đắc Huỳnh D (sinh năm 1996, trú tại: khu phố 1, phường L, thành phố P) đến công an phường L trình báo sự việc.
Qua xác minh, công an phường L đã mời bị cáo D lên làm việc. Tại công an phường, bị cáo đã thừa nhận hành vi trộm cắp xe mô tô biển số 86H1- 0728 của mình.
Vật chứng vụ án:
- 01 xe mô tô hiệu YAMAHA JUPITER màu trắng, đen, biển số 86H1-0728, số khung: CJ5VT205Y095081, số máy: 5VT2 – 95081; 01 giấy đăng ký xe mô tô biển số 86H1- 0728 mang tên Lê Thanh Y.
- 01 giấy bán xe mô tô biển số 86H1- 0728 đề ngày 05/3/2019, người bán là Phạm Quốc D; 01 phiếu cầm đồ kiêm khế ước đề ngày 03/3/2019, người cầm đồ là Phạm Quốc D.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 48/KL – HĐĐG ngày 05/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Thành phố P xác định: 01 chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Jupiter – biển số : 86 H1- 0728 – Số máy: 5VT2- 95081 – Số khung: CJ5VT205Y095081, có giá trị là 10.400.000 đồng (Mười triệu bốn trăm nghìn đồng).
Về dân sự: bị hại Đường Ân T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự.
Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo D không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản nêu trên.
Tại phiên tòa bị cáo Phạm Quốc D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Bản cáo trạng số 190/CT – VKSPT- HS ngày 04 tháng 11 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, tỉnh Bình Thuận đã truy tố bị cáo Phạm Quốc D tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự;
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Phạm Quốc D đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo biết việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác, bất chấp hậu quả.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Phạm Quốc D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự; điểm h khoản 1 Điều 52;
điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Phạm Quốc D với mức hình phạt từ 15 tháng tù đến 21 tháng tù.
Về trách nhiệm bồi thường dân sự:
Bị hại Đường Ân T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì về dân sự nên không buộc bị cáo phải bồi thường.
Bị cáo D không trình bày lời bào chữa, không tranh luận gì với Kiểm sát viên đồng thời thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như lời kết tội của Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng của bị cáo Phạm Quốc D: sau khi phạm tội bị cáo rất ân hận về hành vi đã thực hiện mong Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, bị cáo hứa sẽ học tập rèn luyện để trở thành người có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố P, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về chứng cứ buộc tội bị cáo: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội. Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra Công an thành phố P, cũng như lời khai của bị hại và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận:
Vào khoảng 07 giờ, ngày 03/3/2019, tại trước số nhà 11 đường TP thuộc khu phố 1, phường L, thành phố P, bị cáo Phạm Quốc D đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Jupiter – biển số : 86 H1- 0728 trị giá 10.400.000 đồng của ông Đường Ân T.
Do vậy hành vi của bị cáo Phạm Quốc D đã thực hiện như đã nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt đối với bị cáo được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố P đã truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Phạm Quốc D vì động cơ tư lợi cá nhân, vì muốn có tiền để tiêu xài cá nhân mà bị cáo đã thực hiện hành vi cố ý lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại, hành vi này là nguy hiểm cho xã hội không những đã xâm phạm đến quan hệ về quyền sở hữu hợp pháp của công dân mà còn gây mất trật tự trị an địa phương. Bị cáo có tiền án và nhân thân xấu. Ngày 19/01/2017, bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Bình Thuận xử phạt 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, lại tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm”, là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và cũng là để giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, xét thấy tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[4] Về xử lý vật chứng:
Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố P đã trả lại 01 chiếc xe gắn máy hiệu Yamaha Jupiter – biển số : 86 H1- 0728 – Số máy: 5VT2- 95081 – Số khung: CJ5VT205Y095081 cho ông Tuấn. Ông T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm về dân sự.
Đối với 01 giấy bán xe mô tô biển số 86H1- 0728 đề ngày 05/3/2019, người bán là Phạm Quốc D; 01 phiếu cầm đồ kiêm khế ước đề ngày 03/3/2019, người cầm đồ là Phạm Quốc D lưu hồ sơ vụ án.
[5] Về trách nhiệm bồi thường dân sự:
Ông Đường Ân T không có yêu cầu bồi thường gì thêm về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.
Số tiền 4.000.000 đồng mà bà Trần Thị H đã trả cho Phạm Quốc D khi mua xe mô tô biển số 86H1-0728 , trong quá trình điều tra bà H không yêu cầu bị cáo D phải bồi thường. Ngoài ra bà H đã trả lại số tiền 7.500.000 đồng cho ông Dương Ngọc T, là số tiền ông T đã bỏ ra để mua xe mô tô biển số 86H1-0728 từ bà H vào ngày 08/3/2019.
[6] Đối với bà Trần Thị H và ông Dương Ngọc T có hành vi mua xe mô tô biển số 86H1-0728 nhưng đều không biết là tài sản do bị cáo D trộm cắp mà có, không xử lý đối với bà H và ông T là có căn cứ nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Phạm Quốc D phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Phạm Quốc D 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án và danh mục án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết, tuyên buộc bị cáo Phạm Quốc D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 01/12/2021). Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 177/2021/HS-ST
Số hiệu: | 177/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/12/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về